Dèng Tà Ôi - thổ cẩm truyền thống trong dòng chảy văn hóa

STNN - Người Tà Ôi ở Việt Nam sống chủ yếu ở vùng Trường Sơn, phía Tây TP Huế. Dân tộc Tà Ôi cũng như các dân tộc khác đều có ngôn ngữ riêng, văn hóa riêng và địa vực cư trú riêng, trong đó ngôn ngữ và văn hóa là cái hằn sâu trong tâm thức không thể xóa mờ được ở mỗi dân tộc.

Văn hóa “bàng bạc” trong mọi mặt của cuộc sống như lao động, sản xuất, sinh hoạt, vui chơi, giải trí,... Đặc biệt, Dèng/thổ cẩm và hoa văn Dèng là hiện vật văn hóa đầy đủ, toàn diện nhất của người Tà Ôi.

det-ta-oi-stnn-2-1750994869.jpg
Trang phục Dèng là đặc trưng văn hóa truyền thống của người Tà Ôi.

Biểu tượng cuộc sống của dân tộc Tà Ôi

Để làm nên thổ cẩm, hết sức công phu từ công đoạn tìm và tạo chất liệu vải cho đến vật liệu bộ khung dệt và dệt. Chất liệu bao gồm: kapas tur (bông sợi), tarơớm (cây râm), ira (vỏ ốc xoăn), achât (củ nâu), mrak (dây đằng đằng). Đó là chất liệu để chế biến từ bông thành sợi, sợi từ không màu thành màu xanh, đỏ, vàng, đen. Đồng thời với việc tạo chất liệu là trang bị đầy đủ vật liệu cho bộ khung gồm 19 bộ phận và một số bộ phận cần đến nhiều hơn một: rko kăn (trục dệt, 02 cái), rreaq (trục đạp, 02), op (trục cuốn tơ và zèng đã dệt, 02), nchan (trục đầu mút, 03). Các bộ phận đó phần lớn phải làm từ cây asir (trúc) ở trong rừng sâu; một số ít làm từ gỗ nhẹ. Dệt những bộ trang phục thông thường đã khó và khi chèn cườm (bằng chì hoặc bằng nhựa) lại càng khó hơn. Vì những nét hoa văn họ sáng tạo ra không chỉ để trang trí thuần túy mà còn mang biểu tượng của một xã hội tộc người...

Như một sự tự nhiên, các cô, các mẹ Tà Ôi khéo léo điểm những ngón tay lên khung dệt, dệt nên cả một bức tranh cuộc sống trên màn sợi rất đặc trưng về chất liệu. Có thể chỉ cần ba màu (đen, đỏ, trắng) và nhiều lắm là năm màu (đen, đỏ, xanh, vàng, trắng) cũng đủ để các cô, các mẹ chế tác thành vô số hình ảnh. Trong số đó, không ít hình ảnh đã trở thành biểu tượng của cuộc sống, của những câu chuyện lịch sử và truyện cổ tiêu biển, hấp dẫn lạ thường.

det-ta-oi-stnn-1-1750994869.jpg
Các chị, các mẹ Tà Ôi điểm những ngón tay khéo léo lên khung dệt để dệt nên cả một bức tranh cuộc sống trên màn sợi cũng rất đặc trưng về chất liệu.

Sau nhiều năm nghiên cứu, biểu tượng cuộc sống qua hoa văn Dèng của dân tộc Tà Ôi được chia làm 9 loại chủ yếu. Đầu tiên là biểu tượng cố kết cộng đồng gồm có 7 hình ảnh tiêu biểu. Đó là Trmóq pakoóm - “Tương hợp, giao hòa”, Karboóq trmóq - “Đoàn kết một lòng”, Siteeng teeng r-al – “Liên kết tỏa sáng”, Siteeng teeng pakhâm - “Liên kết bền vững”, Charbeeng - “Cầu nối đơn”, Charbeeng kloak - “Cầu nối đôi”. Như chính tên gọi, các hình ảnh trên quy tụ thể hiện tính cố kết ở mọi phương diện cuộc sống để cùng tồn tại và phát triển. Và đó cũng là đặc trưng đáng trân trọng và cần khai thác triệt để để tiếp tục làm nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội Tà Ôi thời hiện đại.

Biểu tượng tổ tông, dòng họ có khá nhiều hình ảnh nhưng tiêu biểu là Kooi rét (con Kì Đà) - “Họ Blup Akôl”, Kiring (cá Kiring ở suối sâu) - “Họ Kiring”, Pile pis (quả bưởi) - “Họ Kansoaiq”, Piriu (quả Piriu trong rừng) - “Họ Piriu”, Parlong (quả dâu rừng) - “Họ Parlong”, Adeeng (lá môn thục) - “Họ Adeeng”, Apăl (cối giã) - “Họ Apăl”. Những hình ảnh thể hiện tổ tông, dòng họ đa dạng về thể loại (động vật, thực vật, đồ vật...) và khi xướng danh có thể nhằm tôn thờ hoặc kiêng, cữ. 

Biểu tượng dụng cụ, phương tiện lao động gồm có các hình ảnh: Kanooi - “Cái ổ” để chăn nuôi; Apơat - “Cái trỉa” để trồng trọt; Apoóh tiho - “Bẫy sập”, Aram - “Cái đơm”, Anoók - “Cái xúc cá”, Mbeen - “Cái lưới” để săn bắt; Karta - “Cầu thang” để cất giữ, sấy khô lương thực, thực phẩm. Chuỗi hình ảnh phản ánh trình độ, điều kiện lao động, sản xuất của người gắn bó với rừng, núi, suối sông.

Biểu tượng sản phẩm lao động là chuỗi hình ảnh sản phẩm lao động. Hình ảnh về sản phẩm lao động có thể từ việc trồng trọt mà có như Tôm a-úm - “Cây ngô”, Tôm khăn - “Cây sắn”, Tôm aro - “Cây lúa”, Kallong atuang - “Hạt đậu” nhưng cũng có thể hái lượm sản vật rừng núi sông suối như Abăng - “Mụt măng”, Pir Arui - “Hoa đỗ quyên”, Kartoonh - “Rau rớn”,… Hình ảnh thể hiện vai trò lao động của người phụ nữ duy nhất là Klikloóh - “Đàn bà giã gạo” hay cũng chính là hình ảnh Mẹ lúa. Trong lao động để tạo ra thu nhập thường nhật cho gia đình, cộng đồng, trụ cột lại chính là phụ nữ.

Biểu tượng chiến đấu thể hiện rõ nhất qua 6 hình ảnh: Khêl - cái khiên, Talleau - “cái kiếm”, Kos - “Giáo”, Chiroóng - “Chông”, Tarăh - “Mũi tên”, Karring - “Hàng rào kiên cố”. Những hình ảnh này vừa là vũ khí giao tranh với đối phương khi xảy ra cuộc chiến vừa là phương tiện bảo vệ, an toàn, ổn định cuộc sống cộng đồng nhưng cũng vừa là thông điệp chủ quyền, sở hữu về một vùng, một khu vực nào đó. Chỉ bằng những thứ vũ khí thô sơ ấy mà đã có bao nhiêu người con Tà Ôi lập nên kỳ tích. Anh hùng liệt sĩ A Vâu (xã Hồng Kim, huyện A Lưới), đã đào hố thả chông, đặt bẫy giết nhiều tên Mỹ, nguỵ; Hồ Thị Đơm (xã A Ngo, huyện A Lưới), đặt chông, hái lá rừng ủ men thả vào đoạn sông mà kẻ thù thường xuyên uống ăn,...

Biểu tượng ẩm thực bao gồm những hình ảnh về món bánh đặc trưng là Akoat - “Bánh sừng”; những thực phẩm ưu chuộng và phổ biến như Chipos ntroi - “Cựa gà”, Chiris asiu - “Xương cá”; những vật chứa gia vị mang đậm cốt cách của vùng sâu lạnh như Parrúk prík - “Mấu nhồi ớt”, Chipar prík - “Hũ ớt” và những loại cây cho nước làm thành rượu uống như Atao - “Rượu Aveat”, Ala Pardin - “Rượu đình đình”, Ala Tuvak - “Lá đoác”. Cơ cấu ẩm thực của người Tà Ôi tuy không cầu kỳ, đa dạng nhưng độc đáo, riêng có, gắn bó với điều kiện địa lý, địa chí vùng miền rừng núi, khe suối và có độ ẩm cao.

Biểu tượng ca múa nhạc và lễ hội tuy chỉ thể hiện qua 4 hình ảnh: Ngai Yayăq - “Đàn ông nhảy hội”, Ngai Răm - “Đàn bà múa hội”, Mmoók - Cột lễ”, Abóh oos - “Bếp lửa” nhưng đã toát lên đầy đủ bức tranh dân ca, dân nhạc, dân vũ gắn kết lễ hội truyền thống độc đáo, tâm linh. Ngai yayăq tượng trưng cho sức mạnh phi thường, anh dũng trong chiến đấu với các trở lực và là sự khởi đầu cho mọi nguồn sinh lực hội, lễ cộng đồng. Ngai Răm tượng trưng cho vẻ đẹp hoang sơ, nhu mì, chung thủy và nặng gánh gia đình của người phụ nữ vùng cao. Mmoók tượng trưng cho điểm tương giao, hội ngộ giữa con người và thần linh bảo hộ, chở che, minh giám diễn tiến cuộc sống cộng đồng. Abóh oos là mạch máu cơ thể cộng đồng, là mạch sống sinh sôi, ấm áp xuyên thời gian. 

Biểu tượng truyện cổ được sơn nữ Tà Ôi chú tâm khai thác và thể hiện đa dạng nhưng chủ yếu có các hình ảnh Ngkoang katíng - “Dốc parsee - dốc tình yêu bất tử”, Pir pang - “Truyện cổ tích Pir Choonh”, Trangâu plôm - “Truyện cổ tích Pir Tulíq”, Kineang Tring - “Chương Kalang Niêt Ka trong sử thi Achât). Ngkoang Katíng là nơi ghi lại chuyện tình bất tử của một chàng trai mồ côi, nghèo khổ với một cô gái nhà giàu, xinh đẹp nhất làng. Pir Pang là cô gái mang tên loại hoa rừng mỹ miều, chăm ngoan và giỏi giang việc bếp núc, nương rẫy khiến nhiều chàng trai tứ xứ si mê, theo đuổi và cuối cùng chàng trai mồ côi, vạm vỡ, không kém phần giỏi giang đã được nàng chọn làm ý trung nhân. Trangâu plôm là linh hồn của bà phù thuỷ ác độc, cam tâm giành chồng của nàng Pir Tulíq và khiến đến nỗi nàng bị chồng đưa đến ngọn núi cao nhất, xa nhất, không biết đường về nhà, rồi giết chết. Kineang Tring là hình ảnh hung dữ, tàn bạo, ăn thịt người của cha mẹ nàng Thiên Nga xinh đẹp trên không trung đã bị chàng Achât hạ bệ sau khi lập mưu, tính kế một cách cẩn trọng.

Và cuối cùng là biểu tượng siêu nhiên gồm có bốn hình ảnh đặc tả những vị thần hiện hữu thường trực trong thế giới tâm linh của cộng đồng người Tà Ôi: Vavak (bươm bướm) - “Linh hồn tổ tiên”, Aseap (con dơi) - “Thần hộ vệ trừ tà ma”, Adang (con nhện) - “Thần hộ vệ trừ bệnh tật”, Chidoang avang (đuôi chim én) - “Thần mùa xuân”. 

Ngày nay, bước vào không gian hội nhập, chuyển đổi số, cùng với việc duy trì sản phẩm Dèng với mô-típ truyền thống đã nêu trên, còn có mô-típ hiện đại, như: phụ kiện thời trang gồm túi xách, ví, khuyên tai, băng đô, ba lô, giày dép, mũ nón…; nội thất gồm chăn, ga, gối, nệm, khăn bàn, bọc ghế, ri đô, đồng hồ treo tường, tranh ảnh.

Theo thời gian, thổ cẩm truyền thống Tà Ôi đã có sự thích ứng không hề nhỏ với dòng chảy văn hoá - nhịp sống của thời đại. Từ Dèng không chỉ sản sinh nhiều mô-típ mới mà còn nâng cấp những mô-típ truyền thống lên tầm mới. Đó là có thêm trang phục áo dài, đồ vest, đồ tây, váy công sở, đầm, short cho cả nam và nữ, đủ lứa tuổi; có thêm rèm, phông, thảm,… tương thích với từng không gian nội thất, hội nghị, hội họp, sinh hoạt cộng đồng…

Hòa Dèng vào nhịp sống mới

det-ta-oi-stnn-3-1750994870.jpg
Bà Nguyễn Thị Sửu, Đại biểu Quốc hội trong trang phục Dèng mang đậm bản sắc dân tộc truyền thống của người Tà Ôi.

Để làm nên sản phẩm Dèng đòi hỏi sự công phu, tỉ mẩn, tần tảo của người dệt và người hỗ trợ dệt qua việc phải trải qua quy trình nhiều bước cho tạo sợi, tạo màu sợi, tạo dụng cụ dệt (riêng bộ khung dệt có 19 bộ phận có chức năng khác nhau) nhưng không phải ai cũng biết sức chịu đựng của người dệt khi toàn bộ nguyên liệu đầu vào, đầu ra cùng với bộ công cụ dệt đều nằm trên người dệt cho đến khi hoàn thành sản phẩm. Hơn nữa, cùng là sản phẩm Dèng lại có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có giá trị riêng. 

Trong thời đại mới ngày nay, sự phân biệt giàu nghèo qua sử dụng Dèng không còn nữa, khách hàng ngày càng được mở rộng, không gian, mục đích sử dụng cũng đa dạng. Đó là cơ hội phát triển dành cho người Tà Ôi nói riêng, cho huyện A Lưới nói chung. Tuy nhiên, nội dung và hình thức phải tương hợp với nhau. Sản phẩm phải phù hợp với công dụng của nó để phát huy tốt công năng, đồng thời truyền tải đúng giá trị và ý nghĩa của Dèng. Mỗi sản phẩm Dèng là một chỉnh thể được tạo thành bởi sự pha hợp của nhiều yếu tố, trong đó có các màu sắc của sợi, của cườm (nung tạo bằng chì hoặc bằng nhựa). Chúng hiển hiện ngay trước mặt người thưởng thức bằng vẻ uyển chuyển mà sắc sảo, đằm thắm mà rực rỡ,... Các dải hoa văn cườm vốn được trang trí theo từng bậc. Mỗi bậc là sự hội tụ của không biết bao nhiêu nét hoa văn không chỉ để làm đẹp mà còn để chuyển tải đặc trưng văn hoá của một tộc người. Chính những vẻ lung linh huyền ảo của hình ảnh, hình tượng hoa văn đó đã nâng sản phẩm thổ cẩm này lên một bậc giá trị và làm cho nó tồn tại mãi với thời gian.

Càng đi sâu vào thế giới hoa văn trên trang phục truyền thống càng có nhiều điều đáng nói về bản sắc văn hoá dân tộc Tà Ôi ở đủ các bình diện (văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá xã hội), sống động mà êm ả, cầu kỳ mà thanh nhã. 

Giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Tà Ôi chỉ có thể được giữ gìn khi mọi di sản quý được lưu trữ vững chắc không những trong các thư viện, bảo tàng mà còn trong ý thức, trí nhớ của người dân bản địa. Như các nguồn mạch của mạch ngầm văn hóa dân tộc Việt, giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số Huế không ngừng nối dài và góp phần tôn tạo Văn hóa Mẹ - Việt Nam.

Nguyễn Thị Sửu