Hôm 11/8, tôi đến thăm cơ sở chế biến mo cau thành đồ gia dụng của anh Nguyễn Văn Tuyến cũng là lúc anh xuất chuyến hàng đầu tiên sang Hàn Quốc. Một công ty xuất nhập khẩu tận Hải Dương đã vào Quảng Ngãi để “đốc thúc” nhóm thợ của xưởng gấp rút hoàn thành đơn hàng gần một tháng nay, với 16 chủng loại trong tổng cộng 200 nghìn sản phẩm gồm chén, đĩa, muỗng, ly, quạt, khay… trị giá 400 triệu đồng. Vậy là, từ những chiếc mo cau chỉ chuyên làm quạt “giải nhiệt” trong những ngày hè oi nồng thuở ông bà còn ăn khoai sắn thay cơm, nay chễm chệ lên tàu biển sang xứ sở Kim Chi xa xôi với tư cách là “hàng xuất khẩu”.
Những ai sinh ra và lớn lên ở thôn quê vào những năm 70 của thế kỷ trước, hẳn sẽ lưu lại trong ký ức của mình về chiếc quạt mo “giải nhiệt” trong những tháng hè. Còn với lũ trẻ, hấp dẫn chúng lại là những chiếc tàu cau dùng làm xe kéo cùng tiếng reo hò lẫn trong bụi cuốn mù trời. Bây giờ, có một chàng trai đã giúp mo cau thoát "phận" làm quạt và kéo xe bằng những sản phẩm độc đáo. Anh tên là Nguyễn Văn Tuyến (38 tuổi), hiện ở TP. Hồ Chí Minh nhưng trở thành “Tuyến mo cau” khi anh chọn Đồng Dinh thuộc huyện Nghĩa Hành (Quảng Ngãi) để lập nghiệp.
“Quê gốc Núi Thành nhưng lớn lên ở Phú Yên và học Đại học Giao thông Vận tải TP. Hồ Chí Minh”. Nghe Tuyến thuật lại “sơ yếu lý lịch” của anh như thế, tôi cắt ngang: “Học giao thông vận tải thì liên quan gì đến các loại phế phẩm nông nghiệp - những thứ mà anh đã theo đuổi hơn mười năm qua? Học đại học một đàng, lại đi làm cái nghề một nẻo như thế có phí không?”. - “Ồ không! Điều này vừa đúng lại vừa... sai. Nếu được làm công việc mà mình từng học thì tốt quá, nhưng học đại học có khi chỉ là để trang bị một thứ phản xạ, tức kỹ năng sống chứ không chỉ là kiếm kiến thức rồi ra trường sống chết với những gì từng được học. Cuộc sống có lúc nó tách mình ra khỏi cái quỹ đạo tưởng như đã được mặc định ngay từ lúc chọn trường. Tôi là một trường hợp bị “tách ra” như thế”.
Không theo đuổi “giao thông” hay “vận tải” - những gì đã được học trong trường, Tuyến tự tìm lối đi riêng. Lối đi ấy chả giống ai cả. Ngay sau khi ra trường, anh cùng nhóm bạn thành lập công ty chuyên chế biến sản phẩm thân thiện với môi trường từ những phế phẩm bỏ đi, để xuất khẩu. “Khu vực miền Trung, đặc biệt là vùng nông thôn, rất đa dạng về các loại cây trồng. Mỗi một loại cây trồng, sau khi người nông dân thu hoạch, lấy sản phẩm chính để tiêu thụ thì sản phẩm phụ, hoặc họ đốt, hoặc cứ vứt bỏ ngoài đồng thành rác. Vỏ, thân và cùi bắp, xác mía, rác mía, lá mì, cây đậu... nằm la liệt trên ruộng trước khi chúng hóa thân vào đất, làm phân tự nhiên cho cây trồng vụ sau. Điều này cũng tốt thôi, nhưng mình gom lại rồi chế biến thành một thứ hàng hóa để xuất khẩu thì lợi nhuận mang lại cho người nông dân vẫn cao hơn”. Suy nghĩ này giúp Tuyến cùng nhóm bạn mạnh dạn đầu tư các loại thiết bị để “đóng bánh” những sản phẩm phụ từ cây trồng nông nghiệp, được gọi là rác ấy, rồi xuất khẩu. Các nước họ mua thứ rác này về làm giá thể, phục vụ trong nông nghiệp công nghệ cao. Vậy là, Tuyến cùng các cộng sự đã nhìn ra câu chuyện “tìm tiền trong rác” đến 9 năm.
Anh Tuyến kể, năm 2013, ngang qua vùng cát trắng huyện Cam Lâm (Khánh Hòa) năm nào giờ phủ lên một màu xanh no mắt bởi những vườn xoài ngút ngàn. Trong lúc nhiều người chăm chú nhìn những cây xoài lúc lỉu quả thì Tuyến lại nhìn vào... lá của nó. Xoài vùng này ngoài việc luôn cho những vụ mùa bội thu, lá của nó cũng rất khác biệt, vừa to lại vừa dày nên việc thu gom rất thuận lợi. Vẫn theo kỹ thuật ép lá xoài khô thành bánh để xuất khẩu, Tuyến mua với giá 1.000đồng/kg lá khiến cho câu chuyện thu gom lá xoài có lúc thành cơn sốt ở vùng này.
Dạo đó nước Nhật vừa trải qua trận sóng thần tàn phá, nhu cầu mua các loại phế phẩm từ nông nghiệp để làm giá thể cho cây trồng rất cao. Hai loại lá cây "sốt" nhất lúc đó là cao su và xoài, nhưng xoài vẫn hiệu quả hơn. Đến mức, Tuyến phải khuân cả máy ép lá thành bánh về đặt ngay giữa cánh đồng xoài ở xã Cam Hải Tây để mua và ép tại chỗ mới kịp với yêu cầu của đối tác! Sau 5 tháng, công ty của anh đã thu mua ở Cam Lâm 500 tấn lá xoài khô để xuất khẩu sang Nhật. Công việc đang ngon trớn với “lá xoài đi Nhật” thì đùng một cái, có tin đồn ác ý rằng đang xuất hiện một nhóm người xúi dân bứt cả lá xoài non để xuất khẩu sang Trung Quốc. Chính quyền bắt đầu dòm ngó và cảnh giác, còn người dân thì ngờ vực trước việc mua thứ rác bỏ đi này! Tuyến cùng các cộng sự đành gác lại chuyện mua lá xoài và quyết định tìm hướng đi mới.
Những chuyến rong ruổi trên đường của Tuyến lại tiếp tục. Một hôm từ Gia Lai, Tuyến về vùng Nghĩa Hành để tìm nguyên liệu phục vụ cho việc sấy chuối, anh như lạc vào thế giới của những vườn cau sum suê nơi này. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Tuyến: “Tại sao không biến những chiếc mo cau kia thành… chén đĩa để thay cho chén xốp, đĩa nhựa?”. Ý tưởng đó đã khiến anh gạt bỏ nhiều dự định khác để quyết tâm thành “Tuyến mo cau” hơn 2 năm qua.
Dĩ nhiên để được lên tàu bay hay xuống tàu biển xuất ngoại, những chiếc mo cau phải được Tuyến cho “thoát phận” trước đã. Anh chọn Đồng Dinh - nơi mà huyện Nghĩa Hành từng quy hoạch thành cụm công nghiệp làng nghề nhưng khá vắng vẻ. Tuyến thuê lại nhà xưởng của một cơ sở kinh doanh nay đã nghỉ. Máy dập khuôn để cho ra những chiếc đĩa, chiếc chén cùng hàng loạt các sản phẩm khác khá bắt mắt đã được mang về lắp ráp. “Ban đầu, tôi vừa là chủ, vừa là thợ. Kỹ thuật không quá phức tạp nên ngay cả những nữ công nhân cũng có thể đứng máy dập khuôn để cho ra các sản phẩm như thế này”, Tuyến vừa giải thích các công đoạn để làm ra một sản phẩm, vừa “thống kê” các loại sản phẩm mà cơ sở sản xuất của anh đang làm.
Nếu chỉ nhìn thoáng qua thì không thể nhận ra những chiếc khay vuông vức, những chiếc đĩa, chén, chiếc ly tròn tròn, những chiếc quạt xinh xắn được xếp chồng lên nhau khá ngăn nắp này vừa được những người thợ trong xưởng của anh Tuyến cho “thoát phận mo cau”. “Lên các chuyến bay của VietJet rồi đấy!”- Tuyến thông báo ngắn gọn. Anh nói thêm: “Sắp tới, tôi sẽ tìm cách đưa đến các khu du lịch để giới thiệu các sản phẩm thân thiện với môi trường này. Giá thành, có hơi cao một chút nhưng tôi nghĩ, xu hướng hiện nay là không nên dùng các loại đồ đựng thức ăn bằng túi bóng, hoặc nhựa sử dụng một lần. Một đất nước mà nhìn đâu cũng thấy rác ni lông thì không thể nói là xanh - sạch - đẹp được”.
Thực ra thì với giá bán 1.700 đồng/chén, 400 đồng/muỗng... lại có thể tái sử dụng thì không quá đắt để mà phân vân. Người tiêu dùng hoàn toàn tin tưởng vào độ sạch của các loại sản phẩm này sau khi được xử lý bằng phương pháp làm sạch bởi một dây chuyền công nghệ khử trùng hiện đại. Chỉ vào những kiện hàng công nhân chất lên container để ra Đà Nẵng xuống tàu xuất ngoại, Tuyến hy vọng: “Tôi đã thấy tiềm năng xuất khẩu từ những container hàng như thế này!”. Tôi cũng tin như anh.
Theo baoquangngai