Pháp luật hình sự Việt Nam xử lý người mang hai quốc tịch phạm tội như thế nào?

Hỏi: Những ngày gần đây, các cơ quan báo chí, truyền thông đưa tin bà Nguyễn Phương Hằng – Tổng Giám đốc CTCP Đại Nam bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Hồ Chí Minh khởi tố và bắt tạm giam về tội: “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo điều 331 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo tôi được biết, bà Nguyễn Phương Hằng mang hai quốc tịch là Việt Nam và Canada. Xin Tạp chí cho biết trường hợp của bà Nguyễn Phương Hằng sẽ áp dụng theo pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước ngoài để xử lý hành vi phạm tội.

       Xuân Vũ (Vĩnh Phúc)

Trả lời: Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam sẽ áp dụng BLHS của Việt Nam để giải quyết.

Trường hợp người phạm tội là người nước ngoài, theo khoản 2 Điều 5 BLHS quy định: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó. Trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.

Như vậy, người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam chỉ được áp dụng điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế khi họ thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế.

Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch, người có 2 quốc tịch sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người có một quốc tịch.

Do vậy, với trường hợp người Việt Nam có 2 quốc tịch mà phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thì nguyên tắc xử lý sẽ được các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam thực hiện như sau:

Người phạm tội trước hết vẫn được xác định là công dân Việt Nam nên sẽ áp dụng BLHS Việt Nam để xử lý hành vi phạm tội. Trong trường hợp quốc gia mà người Việt Nam mang quốc tịch thứ 2 có áp dụng chế độ bảo hộ công dân và đồng thời Chính phủ nước đó có ý kiến can thiệp thì lúc này sẽ áp dụng khoản 2 Điều 5 BLHS để giải quyết.

Trường hợp nếu bà Nguyễn Phương Hằng đang có hai quốc tịch và cơ quan Công an TP. HCM có đủ căn cứ xác định bà Hằng có hành vi phạm tội của tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” nhưng bà Hằng không thuộc trường hợp được hưởng quyền miễn trừ theo quy định tại khoản 2 Điều 5 của BLHS thì đương nhiên cơ quan tố tụng là cơ quan CSĐT Công an TP. HCM sẽ áp dụng BLHS của Việt Nam để xử lý hành vi phạm tội của bà Nguyễn Phương Hằng.

Trên đây là giải đáp của chuyên gia Luân Phạm. Mọi thắc mắc xin quý bạn đọc liên hệ: toasoan@sinhthainongnghiep.net.vn

BBT

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây