Ông Jacques Morisset - chuyên gia kinh tế trưởng và quản lý Chương trình kinh tế vĩ mô, thương mại và đầu tư, Ngân hàng Thế giới, cho rằng kinh tế Việt Nam trong năm 2022 sẽ tăng tốc mạnh mẽ.
Mục tiêu GDP tăng 7% - 6,5% là khả thi
- Ông nhìn nhận như thế nào về những thay đổi của nền kinh tế do ảnh hưởng của đại dịch?
Ông Jacques Morisset: Có thể nói 2021 là một năm đầy khó khăn đối với Việt Nam. GDP năm 2021 của các quốc gia trên thế giới đều tăng trưởng trung bình 5 - 6%, trong khi đó GDP Việt Nam chỉ tăng trưởng 2,58%. Nếu là những năm trước đó, tình thế sẽ ngược lại, thế giới sẽ chỉ tăng trưởng 2% trong khi Việt Nam tăng trưởng đến 6% - 7%. Vì vậy, rõ ràng năm 2021 là một năm sóng gió đối với Việt Nam. Hãy cùng nhìn lại quý III năm 2021 như một giai đoạn đặc biệt nhất, trong quý này, GDP của Việt Nam đã giảm tới 6,2%, một con số kỷ lục trong vòng 15 năm qua. Điều này có nghĩa nhiều người dân đã bị mất việc làm. Theo số liệu thống kê chính thức của Chính phủ, có tới 60% người dân đã chịu ảnh hưởng của đại dịch, mất việc làm hoặc giảm thu nhập trong quý III. Đây có thể nói là một cú sốc lớn.
- Hiện tại, ít nhiều có thể nói rằng Việt Nam đã bắt đầu bước vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch. Vậy ông có khuyến nghị nào cho Chính phủ Việt Nam để đẩy nhanh tiến trình phục hồi này?
Điều kiện đầu tiên là kiểm soát tốt đại dịch. Tất nhiên, Việt Nam khó có thể kiểm soát được hoàn toàn và các quốc giá khác trên thế giới cũng như vậy. Thứ hai là vấn đề cung – cầu. Theo tôi, Chính phủ Việt Nam đã triển khai rất hiệu quả việc khôi phục các khu vực sản xuất, có thể nói phía cung có những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên vấn đề nằm ở phía cầu. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, nhiều người dân đã mất việc làm, bị giảm thu nhập và đã cạn sạch tiền tiết kiệm, bởi vậy họ không thể tiêu dùng hay mua sắm hàng hóa. Bên cạnh đó, người dân giờ đây cũng lo lắng hơn về tương lai, kết quả là họ sẽ giữ tiền và chờ đợi. Đó là lý do vì sao phía cầu không đạt được mức như năm ngoái. Vậy giải pháp ở đây là gì?
Rõ ràng, Chính phủ cần triển khai các biện pháp kích cầu, đó là nội dung Chính phủ cần triển khai mạnh mẽ hơn nữa và Chính phủ cũng đang xem xét các biện pháp triển khai mạnh mẽ hơn, ví dụ như ban hành các gói tài khóa mạnh mẽ hơn như nhiều quốc gia khác đã thực hiện. Tin tốt là việc triển khai gói tài khóa này hoàn toàn khả thi vì Việt Nam vẫn còn dư địa tài khóa, cụ thể tỷ lệ nợ công mới chỉ ở mức 44% trong khi trần nợ công được Quốc hội thông qua ở mức hơn 60%.
Như vậy, Việt Nam vẫn còn dư địa để vay vốn. Ngoài ra tôi cũng có thể nói rằng cho dù không đẩy mạnh vay vốn thì Việt Nam cũng có thể tăng chi ngân sách vì như chúng ta đã biết dự trữ tiền mặt của chính phủ vẫn ở mức cao.
Câu hỏi ở đây là khoản dự trữ tiền mặt này nên được phân bổ như thế nào? Câu trả lời là hãy khởi động lại các chương trình đầu tư công như đã triển khai trong năm 2020 và hỗ trợ cho những người dân bị mất việc làm, giảm thu nhập hay đã cạn sạch tiết kiệm do đại dịch. Bên cạnh đó, nếu Chính phủ không muốn chi ngân sách thì có thể thực hiện giảm thuế và giảm phần đóng góp của người dân để người dân có tiền để chi tiêu. Tóm lại: chi ngân sách nhiều hơn, giảm các khoản đóng góp và hào phóng hơn với người dân.
- Việt Nam cũng đã thông qua rất nhiều chính sách để tiếp tục ứng phó với đại dịch cũng như phục hồi và phát triển kinh tế. Vậy với chính sách đó và những xu hướng hiện nay, theo ông liệu trong năm 2022, Việt Nam có thể một lần nữa vùng lên mạnh mẽ như con hổ châu Á được không?
Tôi tin rằng Việt Nam sẽ lại một lần nữa vươn lên mạnh mẽ như con hổ châu Á. Trước tiên, đã có những tín hiệu tăng trưởng tích cực từ cuối năm 2021 và Chính phủ sẽ tiếp tục nỗ lực hơn nữa. Các chính sách vừa được Quốc hội Việt Nam thông qua cũng cho thấy Chính phủ Việt Nam đang kiểm soát tốt tình hình và sẵn sàng triển khai nhiều hoạt động hơn nữa.
Bên cạnh đó tôi cũng cho rằng Việt Nam vẫn đang có những thế mạnh và tiềm năng vốn có từ trước đại dịch, thậm chí tôi có thể nói rằng đại dịch phần nào giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến trình cải cách một số nội dung để có thể vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2045.
Đáng lẽ cần thúc đẩy kinh tế số hơn nữa nhưng chính đại dịch đã giúp đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số kinh tế và đó là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế. Chúng ta cũng ghi nhận nhiều cải cách hoặc tư duy về cải cách trong lĩnh vực quản lý đầu tư công, phát triển kinh tế và ứng phó với biến đổi khí hậu. Cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị COP26 đã cho thấy quyết tâm của Việt Nam trong việc đẩy nhanh tiến trình thực hiện cho nội dung quan trọng này và theo tôi đại dịch là một phần lý do cho kết quả đó.
- Việt Nam đã đặt tăng trưởng GDP cho năm 2022 là từ 6 – 6,5%. Theo ông mục tiêu này có khả thi không?
Theo tôi nhiệm vụ này hoàn toàn khả thi. Có thể dự báo Việt Nam sẽ quay lại quỹ đạo tăng trưởng của thời kỳ trước đại dịch, nhưng đó là với điều kiện Việt Nam và cả thế giới sẽ không phải trải qua một cuộc khủng hoảng vì đại dịch nào nữa. Tất nhiên, là một nhà kinh tế, tôi không thể dám chắc về điều đó. Đó là điều kiện đầu tiên.
Thứ hai, tôi hy vọng rằng chính phủ sẽ triển khai kích cầu nền kinh tế thông qua những chính sách tôi đã nêu ở trên về việc chi ngân sách và chính sách thuế. Nếu thực hiện được các nội dung này, tôi tin rằng Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trở lại như trước đây, thậm chí còn có thể mạnh mẽ hơn nữa. Do đó, tôi rất lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam.
Cân bằng tài khóa, tiền tệ
- Việc thực hiện các mục tiêu nêu trên chắc hẳn sẽ gặp nhiều thách thức, thưa ông?
Theo tôi rủi ro lớn nhất chính là vấn đề dự đoán tình hình dịch bệnh. Tốc độ phục hồi và phát triển nền kinh tế sẽ phụ thuộc lớn vào những diễn biến của dịch bệnh nhưng thật khó để có thể đoán trước được điều này. Cùng với đó là những rủi ro về kinh tế. Việt Nam là một nền kinh tế mở cửa, do đó, nền kinh tế Việt Nam sẽ phụ thuộc vào tình hình của nhiều quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là xuất khẩu.
Tiếp đến là rủi ro về lạm phát, hầu hết là lạm phát nhập khẩu. Đơn cử, giá dầu tăng cao sẽ ảnh hưởng đến hoạt động lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu mà Việt Nam là nước có tỷ lệ hàng hoá xuất khẩu lớn. Với hàng hoá trong nước, hiện tại Việt Nam vẫn có thể kiểm soát được mức lạm phát do cung cao hơn cầu. Nhưng hãy giả định trong trường hợp cầu tăng lên, vì Chính phủ muốn có kích tăng trưởng bằng cách kích cầu, thì tới một lúc nào đó sẽ có lạm phát hàng hóa trong nước, nhưng ở mức có thể kiểm soát được.
Tuy nhiên, cũng có thể sẽ có sự cộng hưởng giữa việc tăng giá các hàng hóa quan trọng và việc tăng giá hàng hóa trong nước từ đó dẫn tới lạm phát tăng cao, đòi hỏi các cơ quan chức năng phải kiểm soát lạm phát thận trọng hơn so với hai năm qua.
- Nhưng các rủi ro thường cũng đi đôi với cơ hội. Vậy theo ông đâu sẽ là những cơ hội cho năm 2022?
Cơ hội đầu tiên là trong lĩnh vực xuất khẩu, dù rằng xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào các quốc gia trên thế giới, vào vốn FDI vì 80% doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam đều là doanh nghiệp có vốn FDI. Đại dịch cho thấy chúng ta cần phải đa dạng hóa chuỗi cung ứng và Việt Nam là một trong những ứng cử viên sáng giá cho việc đa dạng hóa. Do đó, nhiều doanh nghiệp lớn đã chuyển tới Việt Nam với mục tiêu đa dạng hóa chuỗi cung ứng của mình nhằm đảm bảo hoạt động xuất khẩu cho nhiều quốc gia khác. Có thể nói Việt Nam đang tận dụng tốt xu hướng đa dạng hóa này.
Ngoài ra, tôi cũng cho rằng Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ kinh tế xanh, kinh tế ứng phó với biến đổi khí hậu. Có thể nói Việt Nam là một trong những nạn nhân của biến đổi khí nhưng Việt Nam cũng có thể tận dụng chính cơ hội này. Chẳng hạn như năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã triển khai trợ giá cho năng lượng mặt trời và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng mặt trời. Khu vực tư nhân Việt Nam đã phản hồi rất tích cực. Ví dụ như tổng mức đầu tư của Việt Nam trong 8 tháng năm 2020 vào điện mặt trời cao hơn tổng mức đầu tư của toàn bộ các quốc gia ASEAN hay toàn bộ châu Phi.
Đó là một ví dụ cho thấy Việt Nam có tiềm năng về phát triển năng lượng sạch bởi Việt Nam có thể nhân rộng kịch bản đã thực hiện với năng lượng mặt trời cho năng lượng gió, pin và các sản phẩm xanh khác. Điều này cho thấy sự năng động của khu vực tư nhân ở Việt Nam. Có thể nói đây là một thế mạnh của nền kinh tế Việt Nam, không chỉ mới đây mà trong vòng hai năm qua.
- Trong một cuộc trao đổi mới đây, ông đã chia sẻ về việc cân bằng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng và hỗ trợ phục hồi kinh tế trong giai đoạn tới. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn làm thế nào để cân bằng giữa hai chính sách này?
Rõ ràng chúng ta đang ở trong đại dịch, chúng ta đang ở trong thời kỳ khủng hoảng, do đó chúng ta cần hỗ trợ người dân và cả các doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Đối với chính phủ, để ổn định kinh tế, có hai công cụ hỗ trợ đắc lực trong ngắn hạn là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Như đa phần các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã áp dụng chính sách tiền tệ, cụ thể Việt Nam đã sử dụng các công cụ chính sách để khuyến khích hoạt động ngân hàng, giảm lãi suất, giảm chi phí vốn vay và mở rộng tín dụng cho người dân và doanh nghiệp. Việt Nam đã và đang triển khai chính sách này trong vòng 2 năm qua và theo tôi đây là hướng đi đúng đắn, cũng giống như nhiều quốc gia khác, vì chính sách này hỗ trợ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Tất nhiên chính sách hỗ trợ này chưa đồng đều vì nó chỉ nhắm tới các hoạt động kinh doanh có liên quan tới ngân hàng, mà như chúng ta đã biết, ở Việt Nam có ít nhất 50% các hoạt động kinh doanh ngoài ngân hàng. Bởi vậy có thể nói đây là sự hỗ trợ có phần thiên vị và hỗ trợ một phần cho nền kinh tế, nhưng dù sao đó cũng là sự hỗ trợ rất quan trọng.
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ cũng có những rủi ro bởi vì có thể tiền sẽ chảy vào túi những doanh nghiệp sẽ phá sản, đó là kịch bản xấu nhất. Một kịch bản khác là các doanh nghiệp không thể trả tiền vay ngân hàng, như vậy vấn đề sẽ chuyển từ doanh nghiệp sang ngân hàng. Đó là một rủi ro lớn và bắt đầu có những lo ngại rằng những rủi ro này ngày càng lớn hơn, nhất là khi Việt Nam đã triển khai chính sách tiền tệ này được hai năm.
Chúng tôi cho rằng Việt Nam cần thận trọng hơn đối với chính sách tiền tệ đã triển khai. Tất nhiên, điều này không có nghĩa rằng Việt Nam nên ngừng chính sách tiền tệ mà cần thận trọng hơn, có thể là minh bạch hơn về tình hình hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp hoặc của những người vay vốn trong hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy vấn đề về lạm phát có thể quay trở lại, không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các quốc gia khác, bởi vậy Ngân hàng Nhà nước cần thận trọng hơn so với thời gian đầu năm 2020.
Đối với chính sách tài khóa, đó là việc bơm tiền vào nền kinh tế, có thể thông qua đầu tư cho các dự án, tạo công ăn việc làm, mua bán nguyên vật liệu, hỗ trợ cho các tổ chức nhà nước để tiêu dùng hoặc hỗ trợ tiền mặt cho người dân để kích cầu tiêu dùng. Việt Nam đã triển khai tất cả các hoạt động này. Trong năm 2020, Việt Nam đã bơm tiền vào các hoạt động đầu tư, hỗ trợ tiền cho người dân nhưng việc thực hiện còn khá rụt rè trong năm 2020 và rụt rè hơn nữa trong năm 2021.
Theo như Bộ Tài chính chia sẻ với chúng tôi, ngân sách dự kiến chi 4% GDP để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Đó là con số trên giấy tờ, tiến độ thực hiện thực tế đạt 60%, và trên thực tế Bộ Tài chính cũng chia sẻ rằng mới chỉ giải ngân được 2,8%. Như vậy có thể thấy tỷ lệ thực hiện giảm từ 4% xuống còn 2,8%, và trong 2,8% này có tới 1,6% dành cho việc gia hạn thời gian nộp thuế, cụ thể cho phép doanh nghiệp nộp thuế chậm 3 – 6 tháng. Tất nhiên đó là một khoản hỗ trợ nhưng không phải một khoản hỗ trợ lớn. Điều tôi muốn nói ở đây là chính phủ có thực hiện hỗ trợ nhưng vẫn còn ở mức khá khiêm tốn, nhất là so với nhiều quốc gia khác, hay ngay cả các quốc gia ở châu Á như Nhật Bản, Malaysia, Hồng Kông...
Chính sách tài khóa có thể là một công cụ rất hiệu quả nếu Chính phủ có tiền để triển khai và Việt Nam vẫn còn tiền để triển khai chính sách này. Tuy nhiên, đề xuất của tôi là Chính phủ cũng không nên sử dụng công cụ này mãi mà hãy chỉ sử dụng nó khi cần để kích thích tăng trưởng kinh tế và sử dụng nó để quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng đã có từ trước thời kỳ đại dịch.
- Ông có thể chia sẻ thêm về những lĩnh vực trọng tâm của WB tại Việt Nam trong năm 2022?
Mong ước của chúng tôi là có thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đạt được những tham vọng đã đề ra đó là trở thành quốc gia có thu nhập cao, thịnh vượng vào năm 2045. Theo như tính toán, nếu không chú trọng đến vấn đề biến đổi khí hậu thì tới năm 2045, thu nhập của Việt Nam có thể bị giảm tới 48%. Vì thế nếu không chú trọng vấn đề này thì có thể Việt Nam không đạt mục tiêu đã đặt ra cho năm 2045.
Chúng ta phải giải quyết rủi ro, nhưng cũng phải chú ý tận dụng cơ hội mà tôi đã nói ở trên. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi làm việc chặt chẽ với Chính phủ và Thủ tướng để thực hiện điều này và hy vọng chúng ta sẽ thành công. Chúng tôi cũng tập trung vào tăng khả năng chịu đựng, giảm ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội. Nếu được vậy thì đúng là ước mơ thành hiện thực.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm rằng, nếu Việt Nam muốn trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045 thì đó phải là nên kinh tế có hiệu quả và sáng tạo hơn rất nhiều. Vấn đề, này cũng đồng nghĩa với việc phải tăng cường kỹ năng, công nghệ và sự phổ biến công nghệ, chúng ta không muốn chỉ có một vài công ty tận dụng được lợi thế công nghệ - thực tế đã có một số công ty làm được như vậy – mà làm thế nào để tất cả các công ty đều tận dụng được lơi thế về công nghệ và kỹ năng. Đó là ước mơ của tôi. Và Ngân hàng Thế giới đang làm việc này hỗ trợ Việt Nam.
Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
Theo VietNam Finance