
Tập hợp các lực lượng trí thức khoa học và công nghệ
Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh nhấn mạnh, các tạp chí khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đóng vai trò không thể thiếu trong việc nâng cao nhận thức và tập hợp các lực lượng trí thức khoa học và công nghệ.
Trong thời đại thông tin bùng nổ mà chúng ta đang sống, các tạp chí khoa học không chỉ đơn thuần là cầu nối giữa các nhà khoa học, các nhà quản lý và người dân, mà còn là một công cụ tuyên truyền, phản ánh và giám sát các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
Phó Chủ tịch Phạm Ngọc Linh cho rằng, sự hiện diện của báo chí trong lĩnh vực khoa học và công nghệ là một phần quan trọng giúp biến những kiến thức khô khan thành những thông tin dễ tiếp cận, sống động và hấp dẫn, từ đó khơi dậy tình yêu và đam mê khoa học trong cộng đồng. Các tạp chí khoa học thực sự là nguồn động góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội.
Hội thảo là diễn đàn lý tưởng để chúng ta cùng nhau thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm quý báu, những sáng kiến hay và các biện pháp khả thi trong việc thúc đẩy sự kết hợp chặt chẽ giữa báo chí và đội ngũ trí thức khoa học, công nghệ.
Đặt khoa học và công nghệ vào vị trí động lực trung tâm của phát triển đất nước
Tại hội thảo, ông Lê Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam, chia sẻ rằng trong thời đại mà tri thức và công nghệ trở thành tài nguyên quan trọng nhất, báo chí đóng vai trò như "người gác cổng" của sự minh bạch và tiến bộ trong chính sách khoa học và công nghệ. Phản biện và giám sát không phải để phủ định, mà để bổ sung, hoàn thiện và đồng hành cùng nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách. Khi thực hiện tốt chức năng này, báo chí sẽ góp phần xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo lành mạnh, hiệu quả, và quan trọng nhất là đặt khoa học và công nghệ vào vị trí động lực trung tâm của phát triển đất nước.
Thứ nhất, báo chí là cầu nối thông tin giữa nhà nước, giới khoa học và xã hội. Thứ hai, báo chí là công cụ phản biện xã hội đối với chính sách khoa học và công nghệ. Thứ ba, báo chí tham gia giám sát quá trình triển khai và thực thi chính sách. Thứ tư, báo chí định hướng dư luận và thúc đẩy sự minh bạch trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Để thực hiện tốt các vai trò trên, báo chí cần đảm nhận những nhiệm vụ cụ thể như: đẩy mạnh thông tin và tuyên truyền về chính sách khoa học và công nghệ thông qua các hình thức đa phương tiện, từ báo in, báo điện tử đến đồ họa dữ liệu, video ngắn và podcast, nhằm lan tỏa mạnh mẽ đến nhiều nhóm công chúng; tổ chức các tuyến bài phản biện chuyên sâu và tọa đàm báo chí với sự tham gia của giới khoa học, doanh nghiệp và nhà quản lý để làm rõ tính khả thi, hiệu quả và tác động của chính sách.
Để duy trì chức năng giám sát, báo chí thực hiện điều tra và ghi nhận thực tế tại các dự án, chương trình, phản ánh trung thực cả thành công lẫn hạn chế. Cuối cùng, cần tạo ra diễn đàn trao đổi công khai và đa chiều về các vấn đề công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học, và năng lượng tái tạo, nhằm đảm bảo rằng chính sách không chỉ phù hợp với giới chuyên môn mà còn gắn kết với lợi ích của cộng đồng.
Đội ngũ làm báo cần cập nhật liên tục về các xu hướng công nghệ mới
Chia sẻ về những khó khăn của báo chí Liên hiệp Hội Việt Nam trong việc tập hợp đội ngũ tri thức khoa học công nghệ, TS Đặng Vũ Cảnh Linh, Viện Đào tạo bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho rằng, hầu hết các tạp chí khoa học của Liên hiệp Hội Việt Nam đều thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính, điều này gây khó khăn và thách thức lớn trong giai đoạn cuộc cách mạng số, khi việc đầu tư cho công nghệ số, đào tạo nhân lực và phát triển các sản phẩm truyền thông mới đòi hỏi nguồn lực tài chính đáng kể.

TS Đặng Vũ Cảnh Linh cũng nhấn mạnh tới thách thức mà báo chí Liên hệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đang đối mặt là việc thiếu hụt đội ngũ phóng viên, biên tập viên có chuyên môn sâu về khoa học công nghệ.
Cần xây dựng quy trình sản xuất nội dung chuyên nghiệp, từ việc lựa chọn chủ đề, thu thập thông tin, phỏng vấn chuyên gia đến việc biên tập và xuất bản. Đặc biệt chú trọng việc kiểm tra, thẩm định tính chính xác của thông tin khoa học trước khi công bố để đảm bảo uy tín và chất lượng của sản phẩm báo chí. Đồng thời, cần phát triển các chuyên mục thường xuyên về các lĩnh vực khoa học công nghệ ưu tiên của đất nước như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, nhằm định hướng và khuyến khích nghiên cứu phát triển trong những lĩnh vực này.
Báo chí Liên hiệp Hội cần phải chủ động hơn nữa, nhanh nhạy hơn nữa
Tại hội thảo, Chủ tịch Hội Thư viện Việt Nam ông Nguyễn Hữu Giới, đề xuất một số giải pháp để báo chí Liên hiệp Hội Việt Nam đẩy mạnh công tác tập hợp và phát triển đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ ở nước ta trong giai đoạn cách mạng mới.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, báo chí Liên hiệp Hội Việt Nam cần phải chủ động hơn nữa, nhanh nhạy hơn nữa trong việc phát hiện vấn đề/nhiệm vụ/nội dung quan trọng và cần thiết của Liên hiệp Hội Việt Nam trong việc đề xuất, tham mưu, hiến kế cho Đảng và Nhà nước các chủ trương/chiến lược/sách lược quan trọng liên quan đến quốc kế, dân sinh về xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Báo chí của Liên hiệp Hội Việt Nam cần đẩy mạnh và đổi mới các hình thức thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và tri thức KHCN cho toàn dân, cho các nhà khoa học, các chuyên gia qua các tài liệu in truyền thống (sách, báo, tạp chí); tài liệu nghe nhìn và tài liệu trên mạng… Đây là thế mạnh của báo chí Liên hiệp Hội Việt Nam.
Ông đề nghị các cơ quan báo chí của Liên hiệp Hội Việt Nam, nếu có trang web cần mở thêm chuyên mục "Tấm gương các nhà KHCN qua các thời kỳ". Việc này không chỉ tôn vinh các danh nhân/nhà khoa học công nghệ lớn ở Việt Nam ở nhiều lĩnh vực qua các thời kỳ, mà còn có ý nghĩa tạo thêm động lực, nguồn cảm hứng cho các nhà khoa học trẻ ở nước ta trong chặng đường phát triển.