Chợ nơi đây không chỉ chứa đựng sắc màu của những phiên chợ vùng cao, mà còn ấn tượng bởi sự giao thương mạnh mẽ với người Hoa ở bên kia biên giới. Cứ mỗi dịp Tết đến, xuân về, chợ phiên Lạng Sơn lại rộn ràng, náo nhiệt trong sự hội tụ, giao lưu văn hoá của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao…
Chợ Lạng Sơn trong lịch sử
Lạng Sơn là địa bàn cư trú của đồng bào Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Mông, Sán Chay… Với hơn 231 km đường biên, tỉnh có 5 huyện tiếp giáp với nước bạn Trung Quốc là: Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc, Văn Lãng, Tràng Định. Từ trung tâm tỉnh lỵ đến cửa khẩu Hữu Nghị (xưa là cửa Nam Quan) chỉ khoảng 15 km. Từ thế kỷ XI, XII nơi đây đã diễn ra các hoạt động giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ta gọi các điểm đó là “chợ trời biên giới”, người Tống gọi là “Bạc dịch trường”. Trong sách Lĩnh ngoại đại đáp, Chu Khứ Phi (đời Tống, Trung Quốc) chép: “Người Giao Chỉ mang các thứ hương, ngà voi, sừng tê giác, vàng bạc đổi lấy các thứ vải vóc. Những người Giao Chỉ đến Vĩnh Bình đều đi đường bộ, hàng họ bán đều quý, nhỏ, nhẹ, chỉ có muối là nặng. Nhưng muối có thể đổi lấy vải”. Ngày nay, các nhà sử học như GS. Trần Quốc Vượng, GS. Hoàng Xuân Hãn, GS. Hoàng Minh Tường… đều nhất quán cho rằng, trại Vĩnh Bình chính là khu vực phía Bắc sông Kỳ Cùng ở vùng lỵ sở Lạng Sơn - tiền thân của phố chợ Kỳ Lừa.
Dưới các triều đại phong kiến quân chủ Việt Nam, giao thương giữa miền ngược với miền xuôi, giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng phát triển. Người Hoa ở bên kia biên giới thường mang hàng hoá sang Lạng Sơn trao đổi. Ở các khu vực tiện đường giao thông, dân cư đông đúc, người Hoa sang cư trú ngày càng đông. Họ ở lẫn với người Nùng tạo nên các phố chợ rất đặc trưng ở miền núi, biên giới Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XVIII, Tả Đô đốc, Hán Quận công Thân Công Tài – vị quan trấn thủ Lạng Sơn đã lập nên phố chợ Kỳ Lừa với 7 đường phố cho thương nhân hai nước tới làm ăn buôn bán, sau trở thành một đô thị cổ có tiếng ở nước ta:
"Kỳ Lừa rợp bóng cây êm
Cửa the nhà gấm vây thêm tứ bề
Khách thương buôn bán đi về
Cửa thông hai nước chợ lề sáu phiên."
(Sứ trình tân truyện – Nguyễn Tông Khuê)

Năm 1758, Tể tướng Nguyễn Nghiễm (1708-1775) qua đây cũng viết trong sách Lạng Sơn Đoàn thành đồ như sau: “Phố Khâu Lư thuộc châu Thoát Lãng, phố xá nối nhau, thổ dân và người Trung Quốc ở lẫn với nhau, phố có chợ mỗi tháng 6 phiên, buôn bán mọi thứ hàng hoá”. Dưới thời Pháp thuộc, chợ Kỳ Lừa vẫn mang vẻ nhộn nhịp của một ngôi chợ vùng biên. Qua ghi chép của người Pháp cuối thế kỷ XIX, chúng ta thấy “Dưới những túp lều lợp rạ đơn giản, lái buôn Trung Quốc và Thổ bày bán lẻ hàng hoá của họ, mỗi mặt hàng có một chỗ bày riêng”. Trong những bức ảnh tư liệu về chợ Kỳ Lừa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, rất dễ nhận thấy có rất nhiều người Trung Quốc mua bán hàng hóa.
Các phố chợ khác có đông người Hoa sinh sống như Na Sầm (huyện Văn Lãng), Thất Khê (huyện Tràng Định), Đồng Đăng (huyện Cao Lộc), Lộc Bình… trở thành các trung tâm thương mại của một vùng, ngày càng đông vui tấp nập, nổi tiếng với những món ăn mang dư vị ẩm thực của người Hoa như: vịt quay, lợn quay, phở chua, khau nhục, đậu phụ, cao xằng, áp chao... Tại những nơi cư trú lâu đời của người Tày, Nùng cũng dần hình thành các chợ phiên miền núi như chợ Bản Ngà (Cao Lộc), chợ Bình Độ (Tràng Định), Tu Đồn, Ba Xã (Văn Quan), Vạn Linh (Chi Lăng)… Chợ thường họp theo phiên, cứ cách 5 ngày lại có một phiên, thường là ngày 2 và 7, có nơi ngày 4 và ngày 9, ngày 5 và ngày 10… Dân gian thường gọi là “ngày chợ” và dùng để tính mốc thời gian. Chợ là nơi trao đổi hàng hoá của nhân dân trong vùng, giữa miền ngược và miền xuôi, giữa Việt Nam và Trung Quốc… Mùa nào thức nấy, họ mang nông sản, hàng thủ công do mình sản xuất ra, các sản vật khai thác được từ thiên nhiên đến chợ bán để mua nông cụ, hàng tiêu dùng thiết yếu. Lái buôn miền xuôi mang muối, dầu hoả, thuốc chữa bệnh, vải, chiếu… lên bán và mua trâu bò về xuôi. Thương nhân Trung Quốc mang đồ gốm sứ, thuốc Bắc, hàng tạp hoá (khuy áo, kim chỉ, gương soi, đồ trang sức…) sang bán tại chợ. Chợ phiên không chỉ là nơi mua bán mà còn là nơi gặp gỡ, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Có những phiên chợ mùa xuân, nam nữ rủ nhau đến chợ vui chơi, hát giao duyên tạo nên một bức tranh văn hoá truyền thống rất đặc sắc như phiên chợ Kỳ Lừa ngày 22, 27 tháng Giêng, phiên chợ Háng Pò (xã Thiện Thuật, huyện Bình Gia) ngày 2 tháng Tư âm lịch... Ngày đó, chợ phiên trở thành Hội chợ. Chợ là nơi phản chiếu sâu sắc điều kiện kinh tế xã hội cùng các phong tục tập quán, ứng xử văn hoá của người dân Xứ Lạng.

Chợ Tết nơi biên cương
Cũng như nhiều chợ vùng cao khác, chợ Tết ở Lạng Sơn dường như đến sớm hơn ở miền xuôi. Do phần lớn đồ lễ, tết đều do của đồng bào tự tay làm lấy nên việc mua bán được tiến hành từ rất sớm. Ngay từ những ngày đầu tháng Chạp, các gia đình đã háo hức chuẩn bị cho cái Tết của mình. Họ đã mang đến chợ những thứ nhà mình làm ra để bán lấy tiền trang trải cho Tết khiến chợ trở nên đông hơn những phiên chợ ngày thường. Có khi chỉ là những chiếc bàn, ghế gỗ mộc, chiếc thang tre, bó chổi… Các mặt hàng thiết yếu, đồ khô dùng cho ngày Tết bắt đầu được bày bán rất nhiều trong các ngày chợ: bát, đĩa, cốc, chén, măng, miến, bún khô, bánh mứt, kẹo, rượu trắng, giấy đỏ trang trí... Bên cạnh đó là nguyên liệu làm các loại bánh truyền thống dùng để thắp hương và đãi khách trong những ngày Tết như: gạo nếp, đỗ, lạc, vừng, đường phên làm từ mật mía… Các sạp hàng bán quần áo dân tộc rực rỡ, nhộn nhịp hơn với khăn áo, túi, địu, mũ, yếm trẻ em, rèm vải… Bên cạnh đó, còn có các vật dụng dùng trong các hoạt động tâm linh tín ngưỡng, trò chơi dân gian mùa xuân như: xóc nhạc, đầu sư tử, thanh la, não bạt, mũ, áo Mo, Tào…

Từ trung tuần tháng Chạp, không khí Tết trở nên sôi động hơn và đông nhất là vào phiên chợ cuối cùng của năm. Chợ phiên trở thành nơi hội tụ các sản vật nổi tiếng của các địa phương: măng khô Bắc Sơn, Tràng Định; gà, quýt vàng, cam canh Bắc Sơn; nấm hương, rượu trắng Mẫu Sơn, khoai môn Lộc Bình, gạo nếp ong vàng, bánh khảo, khẩu sli, pẻng khô Thất Khê, mận muối Na Sầm... Chợ nào cũng chất cao lá dong xanh. Những bó lá dong nếp rộng bản và đẹp được lấy từ các khu vườn dưới tán rừng ven đồi, trong khe suối ở các huyện được thương lái thu gom mang về bán. Lá được phơi héo dùng gói bánh Tày (bánh chưng dài), bánh gio… Từ khoảng 20 tháng Chạp trở đi, gà, thịt lợn bản được bày bán tràn ngập các chợ phiên. Lợn thịt được chọn kỹ, đó là loại lợn béo được nuôi tự nhiên, mỡ dày và trắng dùng để làm nhân bánh chưng, làm các món ăn để được lâu ngày như: lạp sườn, xá xíu, thịt gác bếp, thịt lạp (thịt ướp muối mặn)… Thịt thường được xẻ thành những tảng to và dài để tiện cho việc chế biến và cất trữ theo tập quán lâu đời của đồng bào miền núi. Được ưa thích nhất là lợn đen vốn có thịt thơm ngon hơn các loại lợn khác.

Khác với miền xuôi, đồng bào các dân tộc Lạng Sơn ít ăn giò, chả vào dịp Tết mà chủ yếu ăn gà. Gà để cúng nguyên con, biếu, tặng; người Tày, Nùng có phong tục đi sêu Tết ngày mùng 2 (vợ chồng con gái mang gà trống thiến về nhà ngoại tạ ơn) nên gà là một trong những mặt hàng được bán nhiều nhất ở chợ. Gà nhốt vào các lồng tre nhỏ gánh đến chợ, bày thành từng dãy dài tít tắp. Đó là loại gà làng đẹp mã, nuôi bằng ngô, thân cây chuối; khi luộc lên, da và mỡ có màu vàng óng tự nhiên, thịt trắng mềm rất ngon và đẹp mắt. Người Lạng Sơn rất ưa thích các loại hương do đồng bào dân tộc Tày, Nùng chế tạo nên. Hương được làm bằng các loại thảo mộc của núi rừng có mùi thơm dịu nhẹ, nguyên liệu có sự lựa chọn kỹ càng để dảm bảo tính linh thiêng, thanh khiết. Các gia đình thường mua rất nhiều hương để dùng dần, thậm chí cả năm mới hết. Đồng bào các dân tộc đến chợ phiên không chỉ để mua bán, mà còn được đắm mình vào không khí giao hoà, đông vui của những phiên chợ đặc biệt cuối năm – chợ Tết. Không chỉ người Tày, Nùng, từ những bản làng xa xôi, ở các vùng núi cao, hẻo lánh, người Mông, Dao, Sán Chỉ cũng về chợ để mua sắm đồ Tết. Trong những bộ trang phục mới và đẹp, họ đi thành từng tốp - vừa mua bán, vừa dạo quanh phố chợ để xem hàng hoá, ngắm những mặt hàng lạ lẫm chỉ có vào dịp Tết. Nhiều người sà vào góc chợ bán chim cảnh, ngồi xem các loài chim quý và nghe chim hót…

Đặc sắc nhất của chợ Tết Lạng Sơn có lẽ là chợ hoa đào. Chợ thường bắt đầu từ 22 tháng Chạp và đông nhất vào phiên cuối cùng của năm. Huyện nào cũng có nhưng rõ nét nhất là chợ hoa đào ở khu vực Kỳ Lừa. Được mệnh danh là xứ sở hoa đào, chợ hoa trở thành điểm hội tụ, phô diễn vẻ đẹp của các loài đào quý Xứ Lạng: đào phai, bích đào, bạch đào, đào thất thốn, đào Tiên Mẫu Sơn... Đặc biệt, có cả đào chuông - một loại hoa rất hiếm chỉ có ở vùng núi cao Mẫu Sơn. Những cành đào tự nhiên có hoa và dáng đẹp được chọn trong vườn nhà mang thẳng đến chợ bán không qua lái buôn. Hình ảnh dân bản nâng những cành đào thắm sắc đi trên đường đến chợ hoa tạo nên một khung cảnh Tết miền núi thật nên thơ, thật trữ tình. Do có khí hậu lạnh nên hoa đào của Lạng Sơn rất đẹp: cánh dày, màu sắc tinh khôi, đằm thắm, tươi lâu… Hoa đào ở đây thường có giá rất rẻ, người bán và người mua ít nói thách, có những cành hoa được bán với giá tượng trưng như một cách biếu, tặng nhau “cây nhà lá vườn” khiến người mua và người bán đều rất vui. Vào dịp này, nhiều người dân thành phố, du khách tranh thủ đến chợ thưởng ngoạn vẻ đẹp đặc sắc của hoa đào Xứ Lạng. Trong cái lạnh cắt da cắt thịt của vùng núi đá, nhìn nét mặt hân hoan cùng những cành đào trong tay người đến chợ là như thấy Tết và mùa xuân đã về nơi miền biên cương Tổ quốc.