Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nền tảng xây dựng nông thôn mới thông minh tỉnh Nghệ An

STNN - Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành một xu thế toàn cầu, ngành nông nghiệp – lĩnh vực vốn được xem là truyền thống – cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng mạnh mẽ của công nghệ mới. Việc áp dụng các công nghệ số, từ trí tuệ nhân tạo đến dữ liệu lớn, đang giúp cải thiện quy trình sản xuất, tối ưu hóa quản lý tài nguyên và nâng cao hiệu quả kinh tế.
chuyen-doi-so-nong-nghiep-nghe-an-stnn-2-1750227811.jpg
Ứng dụng máy bay không người lái hỗ trợ phun thuốc bảo vệ thực vật, nâng cao hiệu quả sản xuất và thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp tại xã Mã Thành (huyện Yên Thành, Nghệ An).

Với mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp thông minh, hiệu quả và phát triển bền vững, Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng đang từng bước đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM). Đây không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là động lực để thúc đẩy sản xuất, tăng năng suất, giảm chi phí và tạo lập một nền nông nghiệp hiện đại, hội nhập quốc tế.

Chuyển đổi số trong nông nghiệp - những bước khởi đầu 

Thực hiện Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình chuyển đổi số quốc gia và Kế hoạch số 132/KH-UBND ngày 3/3/2023 của UBND tỉnh Nghệ An, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ số bước đầu được triển khai trong lĩnh vực nông nghiệp tại địa phương. Tỉnh đã có gần 9.000 sản phẩm nông nghiệp được đưa lên các sàn thương mại điện tử như Postmart, Voso…, xếp thứ năm cả nước. Nhiều loại nông sản chủ lực như cam Vinh, chanh, ổi, rau màu được dán tem truy xuất nguồn gốc (mã QR), đồng thời kết nối cung cầu thông qua các nền tảng số.

Trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 25 doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, trong đó có 6 doanh nghiệp đã được công nhận là doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là: Công ty cổ phần Thực phẩm sữa TH; Công ty Vinamilk Nghệ An; Nafood group; Công ty TNHH Mavin Austfeed Nghệ An; Công ty TNHH Mía Đường Nghệ An (NASU), Công ty cổ phần Việt Úc. Điển hình nhất là dự án chăn nuôi bò sữa của Tập đoàn TH. Đó là những doanh nghiệp đi đầu, tạ  o sức lan tỏa trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của tỉnh Nghệ An, đang tiên phong ứng dụng công nghệ cao và các nền tảng số trong sản xuất, sử dụng hệ thống cảm biến để giám sát độ ẩm, ánh sáng, dinh dưỡng, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và thiết bị bay không người lái (drone) trong canh tác. Những mô hình này tuy chưa phổ biến rộng rãi nhưng cho thấy sự chuyển mình bước đầu của nông nghiệp Nghệ An trong kỷ nguyên số.

Hiện nay, toàn tỉnh Nghệ An có khoảng 31.000 ha diện tích canh tác ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, diện tích trồng trọt chiếm hơn 30.600 ha, nuôi trồng thủy sản gần 463 ha. Giá trị sản xuất bình quân đạt trên 250 triệu đồng/ha/năm – cao gấp 2 đến 3 lần so với sản xuất nông nghiệp truyền thống. Đồng thời với hoạt động sản xuất, truyền thông số cũng được chú trọng nhằm thúc đẩy quảng bá và tiêu thụ nông sản. Các sự kiện livestream giới thiệu sản phẩm nông nghiệp như cam Yên Thành, ổi Nghi Lộc… đã giúp quảng bá sản phẩm hiệu quả hơn. Một số chủ trang trại và hợp tác xã đã chủ động học hỏi, ứng dụng các nền tảng mạng xã hội và thương mại điện tử để mở rộng thị trường tiêu thụ.

Khó khăn và thách thức khi áp dụng chuyển đổi số 

chuyen-doi-so-nong-nghiep-nghe-an-stnn-1-min-1750227899.png
 Mô hình nuôi tôm của anh Nguyễn Văn Hòa tại xã Diễn Kim (huyện Diễn Châu, Nghệ An) là một trong những điển hình trong việc ứng dụng chuyển đổi số vào nuôi trồng thủy sản, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát môi trường và tăng năng suất vượt trội.

Dù đã đạt được những kết quả tích cực bước đầu, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp tại Nghệ An vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Một trong những rào cản lớn nhất là thiếu vốn đầu tư. Chuyển đổi số đòi hỏi một khoản đầu tư ban đầu khá lớn để mua sắm thiết bị, phần mềm và đào tạo nhân lực. Cùng với đó, vấn đề hạ tầng công nghệ cũng chưa đồng bộ; nhiều khu vực nông thôn và miền núi còn thiếu kết nối Internet ổn định, gây cản trở cho việc triển khai các giải pháp số, khiến cho người nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ và ứng dụng các giải pháp hiện đại vào sản xuất.

Nguồn nhân lực hạn chế cả về số lượng và chất lượng cũng là rào cản đáng kể trong triển khai chuyển đổi số đồng bộ. Lực lượng lao động tham gia sản xuất nông nghiệp hầu hết trình độ chưa cao, khả năng tiếp cận công nghệ còn nhiều hạn chế; lao động ngoài độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn. Người nông dân phần lớn vẫn chưa quen với công nghệ hiện đại, việc đào tạo, tập huấn kỹ năng số cho người dân chưa được tổ chức thường xuyên và thiếu trọng tâm.

Bên cạnh các công ty và tập đoàn lớn với sự đầu tư bài bản, chuyên nghiệp được nhắc tới ở trên, mô hình chuyển đổi số của nông dân chủ yếu tập trung vào từng khâu của quá trình sản xuất. Do đó, vẫn chưa có nhiều sản phẩm ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số theo chuỗi giá trị sản phẩm, dẫn đến hiệu quả chưa cao và thiếu tính bền vững. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa sản xuất, công nghệ sinh học và các quy trình canh tác tiên tiến vẫn còn hạn chế so với quy mô sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn sạch, an toàn (GAP), hữu cơ, GlobalGAP và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ và chưa được quan tâm đúng mức.

Thêm vào đó, quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ và phân tán gây khó khăn cho việc triển khai công nghệ số một cách đồng bộ. Việc thiếu cơ sở dữ liệu số hóa toàn ngành, đặc biệt về đất đai, mùa vụ, nhật ký canh tác và khí tượng thủy văn, cũng như cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân ứng dụng công nghệ còn thiếu thực tiễn và hấp dẫn, càng làm gia tăng thách thức cho quá trình chuyển đổi số.

Những chính sách và giải pháp hỗ trợ chuyển đổi số cho nông dân

Tại Hội thảo khoa học về chuyển đổi số trong NTM hướng tới xây dựng NTM thông minh trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2024 – 2025, Thạc sỹ Phạm Duy Trình, Trưởng bộ môn Hệ thống nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ, đã nêu quan điểm: “Chuyển đổi số nông nghiệp là yêu cầu tất yếu khách quan và là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của cả hệ thống, ngành, doanh nghiệp, khoa học công nghệ và đặc biệt là người nông dân; là phương thức để thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp thông minh, nông thôn hiện đại, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong chuỗi sản xuất, chế biến, thị trường và nền kinh tế.” 

Ông Phạm Duy Trình cũng nhấn mạnh rằng việc chuyển đổi số trong nông nghiệp không thể thực hiện trong ngày một ngày hai; quá trình này cần có sự đồng lòng từ chính quyền, doanh nghiệp và người dân. Nếu không có một chiến lược triển khai rõ ràng, việc chuyển đổi số sẽ gặp khó khăn.

Còn theo ông Nguyễn Văn Đệ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An: “Chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ giúp tăng trưởng về mặt sản lượng mà còn nâng cao thu nhập cho nông dân Nghệ An, cải thiện chất lượng đời sống và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Đây chính là yếu tố quan trọng giúp Nghệ An thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững.”

chuyen-doi-so-nong-nghiep-nghe-an-stnn-1-1750227811.jpg
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Văn Đệ cùng lãnh đạo các sở, ngành và huyện Nghĩa Đàn tham quan mô hình kinh tế có hiệu quả cao tại địa phương.

Bên cạnh đó, chuyển đổi số sẽ giúp xây dựng các chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp hiệu quả hơn. Dữ liệu về sản phẩm từ khâu trồng trọt, thu hoạch đến chế biến và tiêu thụ sẽ được cập nhật và lưu trữ trong các hệ thống thông minh, giúp nông dân, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý dễ dàng giám sát và điều chỉnh các hoạt động sản xuất, như Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Đệ nhấn mạnh.

Với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các cấp chính quyền, doanh nghiệp công nghệ, cùng nỗ lực không ngừng của nông dân, chuyển đổi số sẽ trở thành nền tảng vững chắc giúp ngành nông nghiệp Nghệ An bước vào một kỷ nguyên mới, phát triển bền vững và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế khu vực và quốc gia.

Vũ Thắng