STNN - Những năm gần đây, mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng ở xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đã giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định, vươn lên khá giàu. Mô hình sản xuất này đã góp phần làm tăng độ che phủ rừng, phát huy khả năng giữ đất, chống sạt lở, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Mô hình nuôi trồng thủy sản trên biển – Penghu có những công nghệ gì?
- Phát huy tiềm năng kinh tế dưới tán rừng
Mô hình nuôi thủy sản (tôm, cua, sò huyết,…) dưới tán rừng là hình thức nuôi gắn với bảo vệ rừng và trồng rừng ngập mặn, quan tâm đến tăng trưởng nguồn các-bon xanh, phù hợp với xu thế phát triển xanh trên thế giới. Đây là mô hình nuôi sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên, hạn chế chất thải phát sinh, chi phí đầu tư thấp, đem lại thu nhập khá cao cho nông dân. Ngoài ra, mô hình còn mang lại hiệu quả cao trong việc quản lý bảo vệ rừng, giúp duy trì độ che phủ rừng, chống sạt lở, tăng khả năng chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu.
Phó Trưởng Phòng Kỹ thuật quản lý bảo vệ rừng, Ban Quản lý rừng phòng hộ Biển Tây Châu Minh Vũ cho biết: “Việc nuôi thủy sản dưới tán rừng ngập mặn, rừng phòng hộ là cơ chế tốt để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa phát triển kinh tế và bảo vệ rừng. Các hộ nhận khoán phải đảm bảo ít nhất 70% diện tích có rừng, 30% diện tích được phép nuôi thủy sản. Rừng phải trồng từ 20 năm trở lên mới được phép khai thác. Điều này góp phần duy trì ổn định diện tích rừng gắn với phát triển kinh tế, tạo thu nhập ổn định cho người dân”.
Ông Ngô Văn Tiền, ngụ ấp Gò Công Đông, xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân là một trong những lão nông có trên 25 năm thực hiện mô hình nuôi tôm, cua dưới tán rừng. Ông Tiền cho biết: “Gia đình tôi có hơn 5ha đất rừng được giao khoán và đã thực hiện mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng nhiều năm qua. Mô hình sản xuất này được cái lợi là chi phí đầu tư thấp và hạn chế rủi ro. Sau khi trừ chi phí con giống, cải tạo nước,… thu nhập mỗi năm của gia đình tôi từ 200 đến 250 triệu đồng. Đối với rừng, phải trồng từ 20 năm trở lên mới được phép khai thác. Lần khai thác gần đây nhất của gia đình tôi là vào năm 2018, với diện tích rừng đến độ tuổi khai thác chiếm 50% tổng diện tích, cho thu nhập hơn 40 triệu đồng. Sau khai thác gia đình tôi tiến hành trồng lại rừng, đảm bảo diện tích rừng theo quy định, góp phần tạo môi trường để thủy sản phát triển”.
Gia đình cô Huỳnh Thị Nghiệp, ngụ ấp Gò Công Đông, xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân cũng tham gia thực hiện mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng từ nhiều năm qua. Những năm đầu, gia đình cô Nghiệp thực hiện mô hình nuôi tôm dưới tán rừng trên toàn bộ 06ha được giao khoán. Trong 02 năm trở lại đây, gia đình cô Nghiệp tiến hành cải tạo lại vuông và thả nuôi kết hợp nhiều loại thủy sản trên cùng diện tích gồm nuôi tôm quảng canh cải tiến, nuôi cua và sò huyết, trong đó có phân khu vực nuôi sò huyết giống. Việc đa dạng đối tượng nuôi trên cùng diện tích giúp gia đình cô có thu nhập thường xuyên, ổn định và đạt trên 300 triệu đồng mỗi năm.
Cô Nghiệp cho biết: “Mặc dù, mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng tuy lợi nhuận không cao như nuôi tôm công nghiệp nhưng điều làm gia đình tôi hài lòng nhất là chi phí đầu tư thấp, lại thích ứng tốt với thời tiết thất thường hiện nay, mô hình còn góp phần bảo vệ, phát triển rừng”.
Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Biển Tây Nguyễn Xuân Thọ cho biết: “Ban Quản lý rừng phòng hộ Biển Tây hiện đang quản lý hơn 5.000ha rừng ngập mặn trên địa bàn xã Nguyễn Việt Khái và đã thực hiện giao khoán cho 1.452 hộ, với diện tích gần 4.100ha. Việc thực hiện mô hình thời gian qua đã mang lại hiệu quả tích cực trong quản lý tài nguyên rừng, ngăn chặn phá rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, mang lại thu nhập ổn định cho người dân nhận giao khoán”.
Xác định nuôi thủy sản dưới tán rừng là mô hình bền vững để phát triển kinh tế, bảo vệ và phát triển rừng, thời gian tới, Ban Quản lý rừng phòng hộ Biển Tây tiếp tục hỗ trợ, hướng dẫn người dân phát triển mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng; liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tổ chức sản xuất theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; kết hợp với các trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ để nghiên cứu thực hiện hầm than xuất khẩu; xây dựng thương hiệu tôm, cua sinh thái để nâng cao giá trị sản phẩm… Qua đó, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho hộ nhận khoán trên lâm phần.
Mỹ Trân (camau.gov.vn)