Quả đúng là thế! Đã chăn nuôi thì nuôi con gì cũng có cái khó, cái khổ, phải thấm đẫm mồ hôi công sức, thức khuya dậy sớm, thấp thỏm, và có lúc là sự trả giá để đúc kết ra bài học kinh nghiệm.
Nghề nuôi tằm cũng vậy, quê tôi từ năm 2005 trở về trước, con tằm gắn liền và thân thuộc với người dân trong làng, hầu như nhà nào cũng “trồng dâu nuôi tằm” tạo nguồn thu nhập cho gia đình. Sau “Khoán 10” cơ cấu lại ruộng đất, mỗi hộ gia đình được hợp tác xã phân cho 8 thước dâu/hộ, nhà nào đông nhân khẩu thì được phân nhiều hơn.

Cây dâu được trồng thành luống, khoảng cách giữa các cây chừng 50 cm. Khi tiết trời chuyển heo may, cành dâu cằn lại, lá nhỏ dần; đó cũng là lúc báo hiệu vụ cuối của người trồng dâu nuôi tằm. Như những cây trồng khác, cuối vụ, người trồng dâu cắt hạ cành dâu để vụ sau dâu lên chồi mới; mà người dân quê tôi hay nói với nhau là đi “phát cành dâu”, cây nào cao, cây nào già cỗi thì được chặt đốn, hạ thấp xuống. Với những cây đã hạ đốn thì phải mất hai đến ba vụ mới có thể nhiều cành, dâu ra nhiều lá.
Mùa xuân đến là lúc cây cối đâm chồi, nảy lộc, như được tiếp thêm sinh khí của đất trời, những chồi dâu non nớt hôm nào, chẳng mấy đã tạo nên cánh đồng dâu xanh rì, lá dâu non tích tụ đẫm nắng trời và sương mai dần trở nên xanh cứng và bắt đầu ra quả, khi quả dâu chín thì chuyển màu tím lịm, ăn rất ngọt, là loại quả hấp dẫn đối với lũ trẻ chúng tôi ngày đó. Tan cuộc nô đùa ở sân kho của xóm, chúng tôi rủ nhau đi ăn quả dâu chín, ăn xong miệng đứa nào đứa nấy đen sì, sợ bị bố mẹ phát hiện nên bảo nhau cho một nắm cát vào vạt áo, dúm lại rồi lau miệng cho sạch trước khi về nhà.
Đó cũng là lúc lứa “tằm xuân” được bắt đầu và người nuôi kỳ vọng nhất. Nghề trồng dâu nuôi tằm được ví như “nuôi con mọn”. Bởi lẽ, con tằm là loại vật nuôi rất “khó tính”, phải được sống trong môi trường trong lành, nguồn thức ăn của chúng là lá dâu cũng đòi hỏi phải sạch, không bị nhiễm thuốc trừ sâu.
Nói về con tằm, có nhiều người cùng lứa tuổi chúng tôi ở các miền quê không biết con tằm có hình hài như thế nào? Con tằm có hình dạng giống con sâu, là loại côn trùng có vòng đời trải qua bốn giai đoạn: trứng, tằm, nhộng và ngài. Quá trình phát triển của con tằm được trải qua các giai đoạn khác nhau như: Tằm vừa mới nở ra gọi là ngủ giấc 1, giấc 2, giấc 3 sau đó chuyển sang ăn rỗi, rồi 1 chiều, 2 chiều, 3 chiều… cho đến 7 chiều thì tằm chín, đây là cách tính tuổi tằm của người dân làng tôi.

Thời gian để nuôi một lứa tằm từ 22 đến 25 ngày, nhà nào có nhiều dâu thì nuôi 1 vòng trứng hoặc 1,5 vòng trứng; nuôi ít ½ vòng trứng; con tằm lúc mới nở có kích thước nhỏ li ti, khi cho tằm ăn người nuôi phải thái dâu thành sợi thật nhỏ, giai đoạn tằm còn nhỏ được nuôi trong cái “mẹt”, đòi hỏi người nuôi phải cẩn thận và dành nhiều thời gian cho tằm ăn 6-7 bữa/ngày, kể cả ban đêm cũng phải thức dậy để cho ăn rồi thay phân cho chúng 1 hoặc 2 lượt/ngày. Khi tằm chuyển sang giai đoạn ăn “rỗi” là lúc tằm bắt đầu ăn khỏe, ăn nhiều và ăn nhanh; vậy nên người xưa có câu thành ngữ “ăn như tằm ăn rỗi”, lúc này người nuôi bắt đầu chuyển sang cái “nia” cái “nong” để nuôi, và đòi hỏi người nuôi phải chuẩn bị sẵn một lượng lớn lá dâu trong nhà. Dâu khi hái về phải được hong khô trước khi cho ăn. Cứ nuôi như thế cho đến 6, 7 “chiều” thì tằm chín.
Khi con tằm chuyển sang màu vàng, trong suốt hơn đó là lúc con tằm đã chín. Người nuôi nhặt riêng những con tằm đã chín, đưa lên “đác” để cho tằm làm tổ, lúc này tằm bắt đầu nhả tơ. Để sợi tơ được dẻo, óng ả, người nuôi phải đốt củi, đốt than sưởi ấm khi tằm làm tổ. Sau 2-3 ngày, thành quả là những nong kén vàng ruộm. Kén có hai loại, kén vàng và kén trắng; đó là do giống con tằm tạo nên.
Niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt rạng ngời của người nuôi khi những nong kén của mình đem lại hiệu quả và có giá trị kinh tế. Nhưng không phải niềm vui đó lúc nào cũng đến với người nuôi tằm, bởi không phải lứa tằm nào cứ nuôi là được, có những lứa phải bỏ đi một phần hai, phần ba, có lứa mất trắng, bởi do lá dâu bị nhiễm thuốc trừ sâu, ô nhiễm môi trường, thời tiết nóng, ẩm. Nên người dân làng tôi thường ví von “nuôi lợn có năm nuôi tằm có lứa”.

Những năm 2000, cái thời “hoàng kim” của nghề ươm tơ, phụ huynh của đám bạn học cùng cấp 2 với tôi ở thôn Hồng Phong, xã Thái Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình gần như nhà đứa nào cũng làm nghề ươm tơ; có đến nửa số hộ trong thôn làm nghề ươm, gần nhà tôi thì có hai, ba nhà cũng làm nghề này.
Tôi có hỏi về cánh đồng dâu sau làng được trồng từ khi nào, thì câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ. Còn nguyên nhân của việc cánh đồng dâu bị chặt đi là do những lứa tằm thường xuyên bị hỏng, phải bỏ đi vì nhiễm thuốc trừ sâu, vì sự khắc nhiệt của thời tiết. Con tằm rất mẫn cảm với thời tiết - và thức ăn duy nhất của tằm là lá dâu, phải sạch, tươi; lá dâu mà bị nhiễm thuốc trừ sâu dẫn đến con tằm sinh bệnh và không phát triển.
Hai mươi năm rồi nghề trồng dâu nuôi tằm không còn thân thuộc với người dân làng tôi, cánh đồng dâu bị chặt bỏ nhường chỗ cho cánh đồng trồng màu. Và như một quy luật sinh tồn của tự nhiên, không có gì là mãi với thời gian, nhưng có phần tàn nhẫn không hề nhỏ đối với cánh đồng dâu; với thân phận con tằm.
Để rồi, người làng tôi, một thời là chủ của những luống dâu, nong tằm phải nhói lòng, khắc khoải với nghề mà mình một thời đã từng gắn bó.