Tiềm năng điều trị nhiễm khuẩn và nhiễm nấm của cây hải kim sa

STNN - Nghiên cứu mới của nhóm tác giả ở Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng cho thấy, loài cây hoang dã hải kim sa có tiềm năng ứng dụng sản xuất các chế phẩm điều trị các bệnh nhiễm khuẩn và nhiễm nấm trên da.
cay-hai-kim-sa-stnn-1749006106.jpg
Cây hải kim sa mọc hoang ở nhiều nơi. Ảnh: Internet.

Hải kim sa (tên khoa học Lygodium japonicum), còn được gọi là bòng bong, là một loài dương xỉ mọc hoang nhiều nơi ở Việt Nam. Trong y học cổ truyền, hải kim sa được sử dụng để điều trị viêm thận, viêm bàng quang, tiêu chảy và nhiễm trùng da. Dân gian cũng thường giã nát lá tươi đắp ngoài da để trị các vết viêm da nhẹ, cho thấy cây có thể có hoạt tính kháng khuẩn tự nhiên.

Dựa trên kinh nghiệm này, nhóm tác giả ở Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng (TP.HCM) đã nghiên cứu, xác định khả năng kháng khuẩn và kháng nấm của cao chiết lá hải kim sa.

Cụ thể, nhóm nghiên cứu sử dụng ethanol 70% để chiết xuất hoạt chất và thu cao toàn phần từ lá hải kim sa đã được phơi khô và xay nhuyễn. Sau đó, cao toàn phần được phân chia thành các phân đoạn khác nhau bằng dung môi theo độ phân cực (khả năng hút hoặc hòa tan các chất của dung môi) tăng dần, giúp tách các chất trong cao thành từng nhóm riêng, dễ nghiên cứu hơn: n-hexan (HE), chloroform (CF), n-butanol (BU) và nước (WA).

Kết quả phân tích thành phần hóa học cho thấy cao chiết chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học cao như flavonoid, alkaloid, polyphenol, saponin, tanin, carotenoid, coumarin và phytosterol. Đây là những nhóm hoạt chất đã được chứng minh có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn và nấm trong nhiều nghiên cứu trước đây.

Cao toàn phần và các phân đoạn được thử nghiệm trên hai loại vi khuẩn phổ biến là cầu khuẩn gram dương Staphylococcus aureus (S. aureus) thường gây viêm da, mụn nhọt, áp xe và trực khuẩn gram âm Pseudomonas aeruginosa (P. aeruginosa) thường gặp ở người suy giảm miễn dịch.

Kết quả, cao toàn phần có khả năng ức chế mạnh cả hai loại vi khuẩn, với đường kính ức chế sự phát triển của vi khuẩn (khoảng cách đo trên một đĩa thạch, nơi vi khuẩn không thể mọc lên xung quanh cao chiết) là 12 - 13 mm.

Các phân đoạn HE, CF và BU cũng cho hiệu quả rõ rệt (đường kính ức chế vi khuẩn từ 9,7 – 12,7 mm). Trong khi đó, phân đoạn nước (WA) không có tác dụng kháng khuẩn đáng kể. Để so sánh, Ciprofloxacin, một loại kháng sinh được sử dụng phổ biến để điều trị nhiều loại nhiễm khuẩn, có đường kính ức chế 32 mm đối với vi khuẩn S. aureus và 44 mm đối với P. aeruginosa.

Nhóm tiếp tục thử nghiệm khả năng ức chế nấm Candida albicans, loại nấm gây viêm da, nấm miệng, viêm âm đạo và nhiễm trùng huyết. Kết quả, cao toàn phần thể hiện khả năng ức chế mạnh nấm Candida albicans, hiệu quả vượt trội hơn cả các phân đoạn đơn lẻ, với đường kính ức chế vi khuẩn là 12,7 mm. Các phân đoạn BU và WA không cho thấy khả năng kháng nấm rõ rệt, có thể do thiếu vắng những nhóm hợp chất quan trọng như polyphenol hoặc tanin. Mặc dù Fluconazol, thuốc kháng nấm phổ rộng phổ biến có đường kính ức chế lớn hơn một chút là 14,3 mm, nhưng kết quả của cao toàn phần chứng minh nó có thể phát triển thành một giải pháp kháng nấm tự nhiên hiệu quả.

Nhóm nghiên cứu nhận định hải kim sa có tiềm năng ứng dụng sản xuất các chế phẩm điều trị các bệnh nhiễm khuẩn và nấm trên da.

Nghiên cứu đã được công bố trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Số 34/2025.