Đến nay, Việt Nam đã xác định được khoảng 49.200 loài sinh vật, bao gồm 7.500 chủng vi sinh vật; 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước; 10.500 loài động vật trên cạn; 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt; trên 11.000 loài sinh vật biển.
Thực tế cho thấy, các giống thủy sản bản địa tại Việt Nam có nhiều ưu điểm như phẩm chất tốt, khả năng chống chịu bệnh tật cao, đây chính là nguồn nguyên liệu quý để lai tạo và cải tiến các giống nuôi mới. Tuy nhiên, trong những năm qua nguồn lợi thủy sản trên các thủy vực nội địa đã có sự suy giảm mạnh do sự gia tăng dân số với tốc độ nhanh, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm thủy sản ngày càng tăng, người dân đánh bắt quá nhiều với cường độ khai thác cao, triệt để đã làm cho nguồn lợi thủy sản bị suy giảm nhanh chóng (Bộ NN&PTNT, 2012). Thêm vào đó, sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác cũng tác động đến việc suy giảm nguồn lợi thủy sản như môi trường sinh thái bị ô nhiễm, các bãi giống, bãi đẻ bị mất do hoạt động xây dựng của các công trình thủy điện, thủy lợi (Bộ NN&PTNT, 2012). Mặt khác nếu khai thác nguồn gen trong phạm vi hẹp, đa dạng di truyền thấp sẽ giảm cơ hội tạo ra giống chất lượng tốt và tăng khả năng thoái hóa giống. Vì vậy để phát triển được chương trình cải tạo giống trong thủy sản thì trước mắt là phải tập hợp, thuần dưỡng được các nguồn gen đảm bảo đa dạng về cơ sở di truyền.
Xuất phát từ thực tiễn trên, Chủ nhiệm đề tài Thạc sĩ Đặng Minh Dũng cùng nhóm nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Hải sản thực hiện nghiên cứu “Bảo tồn lưu giữ nguồn gen và giống hải sản kinh tế quí hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở biển Việt Nam” với mục tiêu: Thu thập bổ sung nguồn gen 04 loài: Trai ngọc môi vàng 20 con, trai ngọc môi đen 20 con, trai ngọc nữ 20 con, Trai bàn mai 40 con; Bảo tồn, lưu giữ an toàn 07 nguồn gen hải sản kinh tế, quí hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng đã thu thập, lưu giữ đạt tỷ lệ sống >90%; Tiếp tục đánh giá bổ sung chi tiết 07 nguồn gen hải sản đã được thu thập từ năm 2012 đến nay theo các tiêu chí sinh học; Đánh giá tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống 07 nguồn gen; Thăm dò khả năng/ triển vọng khai thác nguồn gen Trai bàn mai.

Tại Việt Nam, công tác bảo tồn, lưu giữ nguồn gen thủy sản cũng đã được quan tâm từ những năm 1998-2000, tuy nhiên mới chỉ chủ yếu tập trung vào các nguồn gen thủy sản nước ngọt, việc bảo tồn và lưu giữ các nguồn gen hải sản còn rất hạn chế. Vì vậy, nhằm từng bước nâng cao chất lượng nguồn gen và sử dụng hiệu quả nguồn giống hải sản phục vụ phát triển nghề cá biển theo hướng bền vững ở biển Việt Nam, nhiệm vụ đã triển khai điều tra, khảo sát và thu thập 08 nguồn gen (trước năm 2019) hải sản (gồm 05 loài quí hiếm, có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng và 03 loài có giá trị kinh tế cao). Năm 2020, nhiệm vụ triển khai bảo tồn, lưu giữ an toàn 07 nguồn gen trong điều kiện thực nghiệm theo phương pháp bảo tồn chuyển vị (Ex-situ).
Từ năm 2012 đến nay, Trung tâm Phát triển nghề cá Vịnh Bắc Bộ - Viện nghiên cứu Hải sản hiện đã và đang lưu giữ thành công 07 nguồn gen, hình thành quần đàn bố mẹ. Trong môi trường lưu giữ, các nguồn gen cho tỷ lệ sống cao, tăng trưởng tốt. Trong năm 2021, nhiệm vụ đã tiến hành thu bổ sung 5 nguồn gen, gồm: trai bàn mai (40 cá thể), trai ngọc môi vàng (20 cá thể), trai ngọc môi đen (20 cá thể), trai ngọc nữ (20 cá thể), Ngao ô vuông (20 cá thể) cơ sở dữ liệu các nguồn gen đã được đánh giá chi tiết, mức độ hoàn thành đối với từng nguồn gen trên 85%. Năm 2021, nhiệm vụ đã thực hiện đánh giá bổ sung chi tiết nguồn gen cá nác, cụ thể: Xác định được tốc tộ tăng trưởng và tỷ lện sông khi nuôi thương phẩm từ nguồn giống nhân tạo đạt tỷ lệ sống 72,7 - 73,2%; Đối với nguồn gen trai bàn mai, nhiệm vụ đã thử nghiêm sinh sản thành công, trong đó phương pháp sốc nhiệt cho tỷ lệ đẻ đạt 33,3% và bước đầu thành công ương nuôi từ ấu trùng chữ D đến ấu trùng đến giai đoạn con giống cấp 1.
- Viện Nghiên cứu Hải sản hiện đã và đang lưu giữ thành công 07 nguồn gen: Cá Song chấm đỏ, Cá Nác, Ngao ô vuông; Trai bàn mai, Trai ngọc môi vàng, Trai ngọc nữ, Trai ngọc môi đen.
- Các nguồn gen đều thích nghi với điều kiện bảo tồn ngoại vi: Tỷ lệ sống của các nguồn gen lưu giữ đều đạt từ 87,5 - 100%
- Năm 2021, tiếp tục bổ sung cơ sở dữ liệu đối với 07 nguồn gen hải sản thu thập lưu giữ theo một số tiêu chí sinh học, sinh sản và nhiệm vụ đã trao đổi thông tin nguồn gen với một số tổ chức cá nhân về thông tin Trai bàn mai, cá Nác và Ngao ô vuông.
- Năm 2021, nhiệm vụ tiếp tục thử nghiêm sinh sản Trai bàn mai cho tỷ lệ cá thể cái sinh sản đạt trung bình 33,3±15,3%, cá thể đực đạt trung bình 36,7±5,8%, tỷ lệ sống của ấu trùng trung bình 0,01±0,01%.
- Nhiệm vụ đã theo dõi nuôi thử nghiệm cá nác bằng nguồn giống nhân tạo tại Hải Phòng tỷ lệ sống lần lượt ở các ao là: ao 1 đạt 72,7%; ao 2 đạt 73,2%.
- Tư liệu hóa nguồn gen và trao đổi thông tin tư liệu và nguồn gen đã được tiếp tục được cập nhật và trao đổi trong năm 2021.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 21030/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.