Chiều ngày 08/10/2025, trong khuôn khổ của Vietstock 2025, đã diễn ra Hội nghị phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm đảm bảo nguồn cung dịp cuối năm 2025 và đầu năm 2026. Hội nghị có sự góp mặt của ông Phùng Đức Tiến – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & Môi trường, lãnh đạo Cục Chăn nuôi & Thú y (Bộ NN & MT), đại diện Chi cục Chăn nuôi và Thú y các tỉnh cùng các khách mời.
Ngành chăn nuôi còn gặp nhiều thách thức
Theo Cục Chăn nuôi & Thú y, năm 2024, nền kinh tế Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng GDP đạt 7,09% so với năm 2023, là mức tăng cao thứ tư trong giai đoạn 2011–2024, chỉ sau các năm 2018, 2019 và 2022. Trong cơ cấu tăng trưởng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 5,37% vào tổng giá trị tăng thêm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%, đóng góp 45,17%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%, đóng góp 49,46%.

Trong đó, ngành chăn nuôi đạt kết quả nổi bật với mức tăng trưởng 5,4% so với năm 2023, cao hơn mức tăng chung của toàn ngành nông - lâm - thủy sản. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 533,6 triệu USD, tăng 6,5%; bao gồm xuất khẩu 1.700 con lợn sống (tương đương 662 nghìn USD) và 1.200 con bò sống. Riêng xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu đầu vào đạt 1,05 tỷ USD.
Trong năm 2024, ngành sản xuất và xuất khẩu thuốc thú y của Việt Nam tiếp tục ghi nhận những bước tiến đáng kể, với giá trị xuất khẩu đạt khoảng 22 triệu USD. Việt Nam hiện có 89 cơ sở sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP và 10 cơ sở sản xuất vắc xin đạt chuẩn WHO-GMP, cung cấp hơn 1.500 loại sản phẩm ra thị trường quốc tế. Các sản phẩm thuốc thú y của Việt Nam đã được xuất khẩu đến hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường lớn như Hàn Quốc, Myanmar, Campuchia, Nhật Bản và Đài Loan. Điều này không chỉ khẳng định chất lượng sản phẩm mà còn cho thấy năng lực cạnh tranh của ngành thú y Việt Nam trên thị trường toàn cầu
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức về sức cạnh tranh sản phẩm. Theo phân tích của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), các sản phẩm chăn nuôi trong nước như thịt lợn, thịt gà, trứng và sữa có giá thành sản xuất cao hơn so với sản phẩm nhập khẩu từ Thái Lan, Mỹ, Brazil và EU. Nguyên nhân chủ yếu đến từ chi phí thức ăn chăn nuôi, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ chế biến sau thu hoạch còn hạn chế và hệ thống kiểm dịch chưa đồng bộ.
Ngoài ra, theo Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam, sản phẩm chăn nuôi nội địa còn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và chứng nhận chất lượng. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu bị hạn chế tiếp cận các thị trường cao cấp như Nhật Bản, Hàn Quốc và EU, trong khi hàng ngoại nhập lại dễ dàng thâm nhập thị trường nội địa nhờ giá rẻ, mẫu mã đồng đều và thương hiệu mạnh.
Chăn nuôi cũng gặp khó khi phần lớn có quy mô nhỏ, phân tán chiếm tỷ lệ cao; năng suất chăn nuôi thấp, giá thành sản phẩm cao; thói quen phân phối, tiêu dùng có nhiều điểm khác biệt, kiểm soát dịch bệnh, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, giết mổ, chế biến và kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi còn tồn tại nhiều bất cập. Sản xuất theo chuỗi liên kết từ trang trại đến bàn ăn còn nhiều hạn chế. Tổ chức quản lý ngành và nguồn lực đầu tư cho chăn nuôi chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn sản xuất và đòi hỏi phát triển.
Khó khăn trong tiếp cận đất nông nghiệp với quy mô đủ lớn để xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, xây dựng các nhà máy chế biến và các dịch vụ liên quan để phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm hiệu quả. Đòng thời, các dịch vụ logistics hỗ trợ và cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển chăn nuôi còn nhiều hạn chế. Các loại hình dịch vụ logistics còn đơn giản, thiếu chuyên sâu, chuyên nghiệp, phân bố manh mún và đầu tư tự phát. Năng lực vận chuyển, lưu kho, chuỗi cung ứng lạnh còn hạn chế.
Mặt khác, từ đầu năm 2025 đến nay, dịch tả lợn châu Phi (ASF) vẫn là nỗi lo lớn của ngành khi người tiêu dùng còn e dè với thịt lợn, trong khi nhu cầu gia cầm tăng mạnh, trở thành "van áp lực" giúp thị trường ổn định trước Tết.
Cùng với đó, chi phí thức ăn chăn nuôi, vốn chiếm tới 60-70% tổng chi phí sản xuất, vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu nhập khẩu. Điều này khiến giá thành sản xuất của Việt Nam cao hơn 15-20% so với các nước trong khu vực như Thái Lan hay Brazil.

Không chỉ đối diện dịch bệnh, thiên tai cũng khiến nhiều địa phương kiệt quệ. Riêng hai cơn bão số 10 và 11 vừa qua đã gây thiệt hại nặng cho các tỉnh miền Trung và miền Bắc, làm hàng chục nghìn con gia súc, gia cầm bị chết hoặc cuốn trôi, nhiều trang trại và cơ sở chăn nuôi hư hỏng nặng.
Cần triển khai đồng bộ các giải pháp
Trước thực trạng này, tại Hôi nghị, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã đề xuất năm trụ cột trọng tâm để tái thiết ngành chăn nuôi, gồm giống - dinh dưỡng - môi trường - giết mổ - nhân lực nhằm vừa đảm bảo nguồn cung thực phẩm dịp Tết, vừa kiểm soát dịch bệnh và khôi phục sản xuất đối với toàn ngành chăn nuôi.
Theo ông Phùng Đức Tiến, Việt Nam cần xây dựng hệ thống giống nội địa, giảm phụ thuộc nhập khẩu lợn nái ngoại và gà lông trắng; phát triển nguồn dinh dưỡng đậm đặc, không biến đổi gene, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng; đồng thời thúc đẩy mô hình chăn nuôi cao tầng, tuần hoàn để giảm ô nhiễm và tiết kiệm tài nguyên.
Đối với nhân lực, ông Tiến nhấn mạnh những "lỗ hổng" trong hệ thống thú y cơ sở. Hiện chỉ có 19/34 tỉnh còn trạm thú y cấp huyện, xã, khiến công tác chống dịch chưa kịp thời.
"Bộ NN & MT đang xem xét ủy quyền cho địa phương quản lý một số khu vực như vùng biên giới để chủ động hơn trong phòng dịch và kiểm soát chuỗi sản xuất, Bộ sẽ tập trung vào cơ chế và giám sát" - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết.

Trong khi đó, để đảm bảo nguồn cung sản phẩm chăn nuôi ổn định cuối năm 2025 và cả năm 2026, theo Cục Chăn nuôi và Thú y thì ngành chăn nuôi cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm. Cụ thể cần quy hoạch và phát triển vùng chăn nuôi tập trung như tiếp tục rà soát, quy hoạch lại các vùng chăn nuôi theo hướng tập trung, chuyên nghiệp, gắn với cải tạo đất nông nghiệp và hạ tầng kỹ thuật. Ưu tiên đầu tư vào các vùng có lợi thế về giống, khí hậu, thị trường tiêu thụ và khả năng kiểm soát dịch bệnh.
Cần bảo đảm đàn giống và nguồn cung con giống chất lượng như tăng cường phát triển công nghiệp sản xuất giống vật nuôi, đặc biệt là giống lợn, gia cầm và bò thịt. Đẩy mạnh nhân giống tại các cơ sở đạt chuẩn, kiểm soát chất lượng giống đầu vào, đảm bảo đủ nguồn cung cho tái đàn và mở rộng sản xuất. Cần kiểm soát dịch bệnh và an toàn sinh học, trong đó chỉ đạo các địa phương triển khai chăn nuôi an toàn sinh học, tiêm phòng đầy đủ, giám sát dịch bệnh chặt chẽ. Ưu tiên đầu tư công nghệ xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nhất là tại các cơ sở chưa thể di dời hoặc chuyển đổi ngành nghề.
Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vùng nguyên liệu trong nước, xây dựng nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để giảm chi phí và tăng giá trị gia tăng. Áp dụng công nghệ hiện đại, ưu đãi tín dụng và đất đai để mở rộng quy mô sản xuất. Ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số bằng cách thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao trong quản lý giống, thức ăn, môi trường và truy xuất nguồn gốc. Khuyến khích doanh nghiệp, trang trại áp dụng chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng và minh bạch hóa chuỗi cung ứng.
Tăng cường thúc đẩy các hội/hiệp hội doanh nghiệp xây dựng liên kết sản xuất theo chuỗi, kết nối thông tin thị trường, minh bạch giá cả, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa các tác nhân. Đồng thời, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại để mở rộng xuất khẩu. Thực hiện triển khai đồng bộ các chính sách theo Nghị định 106/2024/NĐ-CP về hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi, Nghị định 116/2025/NĐ-CP về hỗ trợ khắc phục dịch bệnh, cùng các đề án phát triển giống, thức ăn, chuồng trại đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.