Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ Sáng kiến Một sức khoẻ của Nhóm Tư vấn Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế (CGIAR) tại Việt Nam, với sự tham gia của các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI), Đại học Uppsala (Thuỵ Điển), Viện Thú y (NIVR) Việt Nam và nhiều đối tác khác.
Tại Việt Nam, việc nuôi nhốt động vật hoang dã để làm thực phẩm và kinh doanh thương mại khá phổ biến. Theo một khảo sát về quản lý động vật hoang dã nuôi nhốt giai đoạn 2015–2021, cả nước có ít nhất 6.744 trang trại loại này.
Việc thường xuyên phải tiếp xúc gần với các loài động vật hoang dã – vốn là nguồn chứa các mầm bệnh có thể lây sang người, làm tăng nguy cơ lây nhiễm cho người chăn nuôi động vật hoang dã.
Nghiên cứu của CGIAR phân tích mẫu huyết thanh của người chăn nuôi bốn loài động vật hoang dã (dơi, cầy hương, dúi và lợn rừng) tại 207 trang trại ở tỉnh Lào Cai và tỉnh Đồng Nai.
Huyết thanh là một cách tiếp cận quan trọng để phát hiện phơi nhiễm virus hanta và virus nhiễm virus viêm gan E (HEV) trong quá khứ hoặc hiện tại, ngay cả ở những người không có triệu chứng.
Tất cả người tham gia nghiên cứu đều là chủ trại hoặc công nhân làm việc tại các trang trại động vật hoang dã, có ít nhất sáu tháng liên tục chăn nuôi động vật hoang dã để đảm bảo đủ thời gian phơi nhiễm tiềm ẩn với virus (nếu có) và hình thành kháng thể.
Những người không trực tiếp tham gia nuôi động vật hoang dã, hoặc có tiền sử từng nhiễm virus hanta/HEV, hoặc đang điều trị ức chế miễn dịch, đều bị loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả xét nghiệm huyết thanh của 207 người chăn nuôi cho thấy: có khoảng 8,7% (18 người) từng nhiễm virus hanta, 1,9% (4 người) có dấu hiệu phơi nhiễm gần đây với virus này, và 26,7% (55 người) từng nhiễm virus viêm gan E.
Tỷ lệ mắc virus HEV ở những người này khá giống với các nghiên cứu khác ở Việt Nam, dao động từ 16% đến 72,1%. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng, các chủ trang trại ở Lào Cai có tỷ lệ mắc HEV cao hơn so với ở Đồng Nai. Điều này có thể liên quan đến các hành vi tiêu thụ thực phẩm khác nhau ở mỗi miền, chẳng hạn như việc ăn tiết canh phổ biến hơn ở miền Bắc so với miền Nam.
Nhìn chung, tỷ lệ mắc virus hanta của những người chăn nuôi động vật hoang dã trong nghiên cứu mới cao hơn ước tính toàn cầu (2,9%) và hầu hết các số liệu của châu Á, cũng như các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam (dao động từ 1,6% đến 3,7%). Điều này chỉ ra rằng những người chăn nuôi động vật hoang dã có thể đối mặt với nguy cơ nhiễm virus cao hơn so với cộng đồng nói chung.
Trao đổi với báo Khoa học & Phát triển, nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Thanh Hà ở Đại học Uppsala và ILRI, tác giả thứ nhất của nghiên cứu,cho biết: "Virus hanta và virus HEV đều là các loại virus có khả năng lây truyền giữa động vật và người. Mặc dù nghiên cứu này chưa cung cấp được bằng chứng đầy đủ về việc liệu những người nhiễm virus có thực sự bị lây từ động vật mà họ nuôi hay từ những nguồn khác, nhưng bước đầu nó cho chúng ta một bức tranh về tỷ lệ huyết thanh học của các mầm bệnh trong nhóm những người chăn nuôi động vật hoang dã - vốn là những người chưa được quan tâm nghiên cứu so với các nhóm có nguy cơ cao đã biết như công nhân ở trang trại chăn nuôi trâu, bò, lợn; nhân viên lò mổ; người bán thịt và những người sống trong cộng đồng nông nghiệp khác."

Virus hanta và virus viêm gan E đều có thể gây bệnh ở người, nhưng chúng khác nhau về cách lây truyền và triệu chứng. Virus hanta chủ yếu lây qua tiếp xúc với động vật gặm nhấm bị nhiễm bệnh và các chất bài tiết của chúng, trong khi virus viêm gan E chủ yếu lây qua thực phẩm và nước bị ô nhiễm.
Người nhiễm virus hanta có các triệu chứng ban đầu như sốt, đau cơ, nhức đầu, và sau đó có thể tiến triển thành các vấn đề hô hấp nghiêm trọng hoặc suy thận, dẫn đến tỷ lệ tử vong từ dưới 1% đến 15%, tùy thuộc vào loại virus cụ thể và phản ứng miễn dịch của vật chủ.
Nhiễm virus viêm gan E có thể gây viêm gan cấp tính, với các triệu chứng vàng da, mệt mỏi, đau bụng và nước tiểu sẫm màu. Mặc dù hầu hết các trường hợp đều tự khỏi, nhưng nhiễm trùng nặng có thể xảy ra, đặc biệt là ở phụ nữ mang thai và người có hệ miễn dịch suy yếu.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nguy cơ phơi nhiễm với hai loại virus trên cao hơn ở nam giới, người lớn tuổi, người có thói quen ăn thịt hoặc các sản phẩm từ động vật hoang dã chưa chín kỹ và ở những người báo cáo chưa sử dụng đúng cách đồ bảo hộ khi tiếp xúc với động vật hoang dã.
Các yếu tố môi trường như sinh sống ở vùng cao và khu vực có đa dạng sinh học cao cũng có ảnh hưởng đến nguy cơ phơi nhiễm với hai loại virus.
“Kết quả nghiên cứu cho thấy cần triển khai các biện pháp can thiệp y tế công cộng, quản lý môi trường và cải thiện thực hành chăn nuôi an toàn. Các phương tiện truyền thông đại chúng (truyền hình, phát thanh, báo chí và mạng xã hội) có thể đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về nguy cơ, thúc đẩy các biện pháp phòng ngừa cũng như sử dụng đúng các trang thiết bị bảo hộ,” nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Thanh Hà nói thêm.
Kết quả nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí PLOS ONE vào tháng 8/2025.