Một số giải pháp giảm phát thải khí mê-tan trong hoạt động sản xuất nông nghiệp

STNN - Trước sức ép giải quyết tình trạng nóng lên của Trái đất, việc giảm khí thải nhà kính nhận được nhiều sự quan tâm và đồng thuận cao của các tổ chức trong nước và thế giới. Điều đó thúc đẩy sự quan tâm tới các giải pháp làm giảm thiểu khí thải mê-tan hướng tới nông nghiệp thông minh.
phat-thai-metan1-1736914468.jpg
Canh tác lúa theo hướng "thuận thiên", ĐBSCL sẽ giảm phát thải gần 11 triệu tấn CO2 mỗi năm – Hình minh họa.

Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến 2030, bảo đảm tổng lượng phát thải khí mê-tan không vượt quá 77,9 triệu tấn CO2tđ (hay CO2e), giảm ít nhất 30% so với mức phát thải năm 2020. Trong đó, phát thải khí mê-tan trong trồng trọt không vượt quá 30,7 triệu tấn CO2tđ, chăn nuôi không vượt quá 15,2 triệu tấn CO2tđ. Để thực hiện mục tiêu trên, Kế hoạch đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và cụ thể hóa bằng 26 nhiệm vụ ưu tiên trong giai đoạn từ nay đến năm 2030. Trong đó, Chính phủ yêu cầu các bộ ngành liên quan xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ, thu hút đầu tư; khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, cộng đồng trong các hoạt động giảm phát thải khí mê-tan.

Phát thải khí mê-tan và những tác hại đối với môi trường

Khí mê-tan (CH4) là một loại khí nhà kính mạnh gấp 80 lần so với carbon dioxide(CO2), có tiềm năng làm nóng toàn cầu cao gấp 28 lần so với CO2 trong vòng 100 năm (theo báo cáo của European Commission, 2023). Sự nóng lên toàn cầu dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng như tan chảy sông băng, mực nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt, bão tố…

Hội đồng Cố vấn Khoa học của Liên minh Khí hậu và Không khí sạch (CCAC) cho rằng việc giảm 50% lượng khí thải mê-tan liên quan đến hoạt động của con người trong 30 năm tới sẽ giảm thiểu sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu 0,2°C, một bước quan trọng trong việc giữ mức tăng nhiệt độ tổng thể dưới 2°C.

Ngoài ra, khí mê-tan khi kết hợp với các chất ô nhiễm khác trong không khí có thể tạo thành khí ô-zôn, gây hại cho sức khỏe con người và hệ sinh thái.

Nông nghiệp là nguồn phát thải khí mê-tan (CH4) lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau ngành năng lượng. Trong đó, nông nghiệp chiếm 40% lượng phát thải mê-tan toàn cầu.
Khí mê-tan hình thành chủ yếu từ khí thải đường tiêu hóa của gia súc và phân bón (chiếm 32%) và từ việc trồng lúa nước (8%). Phân bón hóa học chứa nitơ, khi bón vào đất sẽ chuyển hóa một phần thành khí mê-tan. Bãi chôn lấp rác thải và trong nước thải sinh hoạt cũng có các chất khi phân huỷ tạo ra loại khí này.

Tại Việt Nam, nhu cầu giảm phát thải khí mê-tan từ nông nghiệp ngày càng trở nên cấp bách, và các nỗ lực cần được thực hiện để đạt được mục tiêu giảm phát thải khí mê-tan theo cam kết quốc tế và cải thiện môi trường nông nghiệp, Việt Nam cam kết giảm ít nhất 30% tổng lượng phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với mức năm 2020. Nhiều biện pháp đã được lên kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu này.

Công nghệ hỗ trợ canh tác lúa thông minh và bền vững

Đối với ngành nông nghiệp Việt Nam, để đạt được mục tiêu này, dự án 1 triệu ha lúa phát thải thấp đã được triển khai thí điểm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Dự án này không chỉ hướng tới việc giảm 10% lượng khí nhà kính phát thải mà còn tiềm năng mang về 2.500 tỷ đồng/năm từ việc bán tín chỉ carbon, tạo cơ hội cho cộng đồng và doanh nghiệp tham gia vào nỗ lực cải thiện môi trường nông nghiệp.

Theo TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch Hội đồng quản trị Mylan Group kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP RYNAN Technologies Vietnam, với sản lượng lúa gạo lớn, khu vực (ĐBSCL) tạo ra khoảng 26-27 triệu tấn rơm rạ mỗi năm, trong đó 70% lượng này bị đốt hoặc vùi vào đất. Hành động này không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn làm tăng phát thải khí mê-tan (CH4) và các khí nhà kính khác. Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp", nhằm giảm 10% lượng khí nhà kính phát thải.

Tại đề án này, một số chính sách mới sẽ được thực hiện thí điểm, như việc chi trả tín chỉ carbon dựa trên kết quả từ các vùng lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Để bán tín chỉ carbon, cần có các số liệu đo phát thải khí mê-tan một cách minh bạch và rõ ràng. Hiện tại, phương pháp đo phổ biến tại Việt Nam sử dụng "buồng tích lũy khí", nhưng cách thức này gặp nhiều hạn chế về thời gian, công sức và tính chính xác.

phat-thai-metan-4-1736914468.jpg
Mô hình nuôi tôm dùng công nghệ AI giảm phát thải khí nhà kính.

Với quy trình đo đạc truyền thống, diện tích đo chỉ khoảng vài m2, và thường được thực hiện trong khoảng thời gian từ 8:00-10:00 giờ sáng. Điều này làm cho việc đo đạc trở nên công phu, không kịp thời và không thể phản ánh biến động của các yếu tố môi trường như nhiệt độ, thời tiết và lượng nước trong suốt cả ngày. Các kết quả từ phương pháp này không đủ chính xác và không đáp ứng yêu cầu minh bạch.

Vì vậy, Công ty CP RYNAN Technologies Vietnam đã phát triển mạng lưới hệ thống giám sát phát thải khí mê-tan thông minh có tên là MethanEYE™ bằng cách áp dụng “trí tuệ nhân tạo và Internet vạn vật (AIoT)”, thu thập dữ liệu trên mặt đất kết hợp với dữ liệu viễn thám để giám sát phát thải khí mê-tan từ canh tác lúa ở diện rộng và thời gian thực với chi phí đầu tư hạ tầng thấp. 
Đây là giải pháp công nghệ cao cho ngành nông nghiệp, sử dụng thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI) để ước tính lượng phát thải khí mê-tan từ canh tác lúa tại ĐBSCL theo thời gian thực trên diện rộng. Mạng lưới này kết hợp dữ liệu thu thập từ vệ tinh và các hệ thống thông minh trên mặt đất, với mục tiêu cung cấp thông tin chính xác và giảm thiểu chi phí đầu tư hạ tầng.

Cụ thể, hệ thống MethanEYE™ tự động điều hòa nhiệt độ và sử dụng cảm biến để đo độ hấp thụ tia hồng ngoại gần của khí mê-tan tích lũy trong buồng khí. Ngoài ra, hệ thống còn tích hợp nhiều loại cảm biến khác nhau để đo các thông số như nhiệt độ đất (ở độ sâu 15 cm), nhiệt độ bề mặt đất (1 cm), nhiệt độ không khí, cường độ ánh sáng, lượng chất dinh dưỡng trong đất, độ ẩm đất và mực nước trên ruộng.

Dữ liệu thu thập từ các cảm biến này sẽ được kết hợp với dữ liệu vệ tinh giám sát tuổi lúa, mực nước trên ruộng và các yếu tố thời tiết khác. Mạng lưới các hệ thống MethanEYE™ còn áp dụng các thuật toán trí tuệ nhân tạo để tạo ra "bản đồ trí tuệ nhân tạo sinh học (GenAI)" theo thời gian thực, hoạt động liên tục 24/24. Mục tiêu của hệ thống là cung cấp thông tin minh bạch và chính xác, giúp đo lường lượng phát thải khí mê-tan trên diện rộng mà không đòi hỏi chi phí đầu tư cao.

Các chỉ số khí mê-tan được đo lường theo thời gian thực trong suốt toàn bộ chu kỳ sinh trưởng của cây lúa. Kết quả được cung cấp dưới dạng biểu đồ trực quan với số liệu chính xác cho nông dân và các đơn vị liên quan. Thông tin này sẽ được hiển thị trên phần mềm quản trị trung tâm và cho phép nông dân cùng các đơn vị quản lý theo dõi qua smartphone.

Mạng lưới các hệ thống này còn giúp các cơ quan quản lý nhà nước giám sát quy trình canh tác và đảm bảo các tiêu chí, yêu cầu của đề án được thực hiện đúng. Từ đó, nông dân có thể điều chỉnh quy trình canh tác của mình cho phù hợp. Ví dụ, số liệu thực tế cho thấy nếu áp dụng kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ và rút 15 cm nước dưới mặt đất một lần trong một vụ, lượng phát thải khí mê-tan có thể giảm từ 20 đến 30%. Nếu rút nước 2-3 lần trong một vụ, mức giảm phát thải có thể đạt từ 40 đến 50%.

Từ đó, cơ quan quản lý có thể giám sát quy trình canh tác, xác định xem liệu những tiêu chí mà đề án yêu cầu đã được đạt được hay chưa. Các dữ liệu thu thập được cũng sẽ giúp các đối tác có nhu cầu mua tín chỉ carbon, vì họ rất cần những số liệu minh bạch và chính xác để đưa ra quyết định.

Ứng dụng AI trong nuôi tôm nhằm giảm phát thải khí nhà kính 

Những thách thức mà ngành nuôi tôm Việt Nam hiện đang phải đối mặt như ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh, và việc lạm dụng hóa chất không những ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mà còn gây tổn hại lớn đến môi trường tự nhiên. Thực tế cho thấy, sản xuất 1 tấn tôm tiêu tốn tới 0,5 ha đất, 6.000-9.000 m3 nước, và phát thải khoảng 10,5 tấn CO2. Trong đó, 50% lượng khí phát thải này xuất phát từ năng lượng sử dụng trong hệ thống sục khí, 30% từ thức ăn, và 16% từ các hoạt động sinh học trong ao nuôi. 

phat-thai-metan-2-1736914468.jpg
Hệ thống giám sát phát thải khí mê-tan MethanEYE™ tại cánh đồng lúa 10 ngày tại Hợp tác xã Phát Tài (xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh).

Trước những khó khăn trên, nhiều doanh nghiệp trong nước cho biết đã mạnh dạn đầu tư đưa ra các giải pháp dùng công nghệ nhân tạo (AI) trong quản lý môi trường nước, giúp giảm phát thải khí nhà kính và dư lượng kháng sinh trong tôm nuôi, trong đó nổi bật là mô hình nổi bật là TomGoXy. 

Theo đó, một số công nghệ tiên tiến đã được ứng dụng trong mô hình này như thiết bị giàu oxy, máy cho ăn tự động, và các thiết bị kiểm soát sinh học nhằm giảm thiểu ô nhiễm, mô thức TomGoXy như một giải pháp mới đồng bộ (số - lý - hóa - sinh), là làm giàu (G) Oxy - oxy hóa với Oxy tinh khiết tạo ra điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của tôm. Điểm nổi bật của mô thức này là ứng dụng Ryan Mekong – một ứng dụng di động giúp người nuôi giám sát và điều khiển trực tiếp các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tôm và chất lượng nước chỉ bằng một chiếc smartphone. Hệ thống cho tôm ăn thông minh hoạt động với ba chế độ: thủ công, tự động và kết hợp với thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI), giúp tối ưu hóa lượng thức ăn sử dụng trong ngày, từ đó giảm chi phí và tiết kiệm tới 20% thức ăn.

Tôm nuôi theo mô hình này còn có khả năng truy xuất nguồn gốc cùng với tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, khiến sản phẩm dễ dàng xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản. Mô thức này giúp giảm tiêu hao năng lượng từ 5.000 Kwh còn 2.000 Kwh/tấn tôm, góp phần giảm phần lớn khí nhà kính từ nguồn năng lượng sử dụng. Mục tiêu cao nhất mà mô hình hướng tới là đạt được trung hòa carbon, qua đó không chỉ nâng cao giá trị xuất khẩu sản phẩm mà còn đảm bảo rằng sản phẩm có thể dễ dàng tiếp cận các thị trường cao cấp với giá thành sản xuất hợp lý hơn.

phat-thai-metan-3-1736914468.jpg
NSC: Ngày sau cấy. Các chỉ số khí mê-tan được đo lường theo thời gian thực 24/24 cho thấy cường độ tích lũy khí mê-tan trong thời gian từ 8:00 đến 10:00 giờ sáng khác với sau 12:00 giờ trưa.

Mô thức này, không sử dụng bất kỳ hệ thống bánh quạt hay sục oxy khí đáy nào mà sử dụng hệ thống thiết bị cấp oxy tinh khiết được tách từ không khí, giúp tăng hàm lượng oxy tan trong nước và giảm chi phí tiền điện tới hơn 70%. Với nồng độ oxy tan trong nước cao hơn 10 ppm, giúp tôm phát triển nhanh, ít bị bệnh, ít bị stress, nước sạch hơn, tiết kiệm chi phí xử lý nước và thay nước.

Thông qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại di động, nông dân tương tác với thiết bị thông minh trong canh tác, nắm bắt được các thông số của môi trường, đồng thời giúp nông dân quản lý trang trại nuôi tôm hiệu quả về kinh tế hơn. Với hệ thống dữ liệu máy tính cập nhật các chương trình quản lý thức ăn và chăm sóc, quản lý dịch bệnh đến an toàn sinh học, quy trình ngăn ngừa nhiễm bệnh và chương trình thu hoạch, quản lý sau thu hoạch.

Nhờ ứng dụng các công nghệ trên, rủi ro dịch bệnh giảm nhanh đồng thời năng suất nuôi tôm cũng tăng cao, góp phần nâng cao giá trị sản xuất của người nông dân. Với diện tích 1,4 ha, bao gồm 4 ao nuôi, mỗi ao có diện tích 1.000 m², mô thức này có thể cho tổng sản lượng khoảng 100 tấn tôm thương phẩm mỗi năm.

Với những tiềm năng hiện có, cùng với định hướng rõ ràng và nhận thức ngày càng nâng cao trong cộng đồng về quản lý chất thải và hoạt động canh tác, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ hoàn thành mục tiêu của mình trong việc giảm phát thải khí mê-tan, góp phần vào các cam kết toàn cầu trong việc chống biến đổi khí hậu.

Đông Nghi