13 chính sách mới trong dự án luật bảo vệ môi trường (sửa đổi)

Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hộ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường trong năm 2020. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng Luật, Chính phủ đã trình sửa đổi toàn diện Luật Bảo vệ môi trường với 13 nhóm chính sách được sửa đổi, bổ sung.

Theo hồ sơ đề nghị ban đầu, dự án Luật có tên là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BVMT với dự kiến có 07 nhóm chính sách được sửa đổi, bổ sung gồm: Tiêu chí sàng lọc dự án đầu tư; Đánh giá tác động môi trường; Giấy phép môi trường; Quản lý chất thải và công nghệ xử lý chất thải; Quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường; Nội dung, trách nhiệm quản lý nhà nước và việc phân công, phân cấp thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; Công cụ kinh tế và nguồn lực tài chính cho bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, qua quá trình đánh giá, tổng kết, nghiên cứu, tham vấn các chuyên gia, các Bộ, ngành và địa phương cho thấy nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước chưa được cập nhật và thể chế hóa kịp thời; các nội dung về bảo vệ môi trườngcòn được quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau dẫn đến sự thiếu thống nhất, đồng bộ; thực tiễn xu thế thế giới đòi hỏi phải thay đổi các chính sách môi trường cho phù hợp, có tầm nhìn thế kỷ. Trước những vấn đề cấp thiết đó, Cơ quan soạn thảo đã báo cáo về sự cần thiết phải bổ sung thêm 06 nhóm chính sách mới về bảo vệ môi trường cần được sửa đổi. Bao gồm: (1) Quản lý cảnh quan thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; (2) Ứng phó với biến đổi khí hậu; (3) Quản lý chất lượng môi trường; (4) Quan trắc, thông tin, cơ sở dữ liệu và báo cáo môi trường; (5) Hội nhập, hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; (6) Bồi thường thiệt hại về môi trường.
Do đó, phải sửa đổi toàn diện Luật bảo vệ môi trường để thay đổi từ tư duy, nhận thức, quan điểm cho đến các quy định của pháp luật, đáp ứng những yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trình bày Tờ trình dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết nội dung dự thảo Luật đã bám sát 13 nhóm chính sách. Cụ thể:
Một là, nhóm chính sách về tiêu chí sàng lọc dự án đầu tư. Nhằm chủ động phòng ngừa, kiểm soát, giảm thiểu nguy cơ xảy ra ô nhiễm, rủi ro môi trường từ các dự án, cơ sở sản xuất, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, quy hoạch bảo vệ môi trường, phân vùng môi trường, đánh giá sơ bộ tác động môi trường làm cơ sở để kiểm soát các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, định hướng, sàng lọc các dự án đầu tư phát triển.
Hai là, nhóm chính sách về đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Dự thảo luật sửa đổi đối tượng phải thực hiện ĐMC theo hướng bỏ quy định ĐMC đối với kế hoạch; bổ sung ĐMC đối với các dự án luật, pháp lệnh có liên quan đến môi trường, chương trình mục tiêu quốc gia; chỉnh sửa đối tượng chiến lược là các chiến lược cấp quốc gia về phát triển ngành, lĩnh vực có chính sách, nội dung liên quan đến bảo vệ môi trường.
Về đánh giá tác động môi trường (ĐTM), dự thảo Luật quy định đúng vai trò của công cụ ĐTM trong giai đoạn thực hiện dự án. Việc quản lý dự án, cơ sở khi đi vào vận hành được thay thế bằng công cụ giấy phép môi trường, đăng ký môi trường. Trên cơ sở đó, dự thảo Luật đã quy định rõ dự án đầu tư chỉ phải thực hiện các TTHC về môi trường theo một trong bốn trường hợp sau: (1) Chỉ phải thực hiện ĐTM trong giai đoạn chuẩn bị dự án và không phải có giấy phép môi trường; (2) Phải thực hiện ĐTM trong giai đoạn chuẩn bị dự án và phải có giấy phép môi trường trước khi vận hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải của dự án; (3) Không phải thực hiện ĐTM nhưng phải có giấy phép môi trường trong giai đoạn chuẩn bị dự án; (4) Không phải thực hiện ĐTM và giấy phép môi trường.
Ba là, nhóm chính sách về giấy phép môi trường, đăng ký môi trường. Để bảo đảm quản lý chặt chẽ, thống nhất vấn đề này và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, dự thảo Luật quy định về giấy phép môi trường để lồng ghép, tích hợp các loại thủ tục hành chính.
Dự thảo Luật cũng quy định việc đăng ký môi trường (trước khi đi vào hoạt động hoặc trong thời hạn 24 tháng đối với cơ sở đang hoạt động) đối với các đối tượng này theo hình thức đơn giản, áp dụng trực tuyến và tại UBND cấp xã. Đăng ký môi trường không có thời hạn.
Bốn là, nhóm chính sách về quản lý chất thải và công nghệ xử lý chất thải. Dự thảo Luật đã chỉnh sửa, bổ sung các quy định về phân nhóm các loại CTR (CTR sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân; CTR công nghiệp thông thường), phân định các loại chất CTR phát sinh; bổ sung quy định cụ thể về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, công nghệ xử lý chất thải… nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, nâng cao hiệu quả quản lý chất thải, tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”; thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Năm là, nhóm chính sách về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường. Để bảo đảm việc quản lý chất thải, quản lý chất lượng môi trường phù hợp với yêu cầu về bảo vệ môi trường trong quá trình hội nhập với quan điểm lấy con người làm mục tiêu để bảo vệ, người dân Việt Nam phải được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với các nước tiên tiến trên thế giới, dự thảo Luật quy định cụ thể các nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường, nguyên tắc xây dựng và nguyên tắc áp dụng quy chuẩn đối với một số nhóm quy chuẩn chủ yếu. Theo đó, dự thảo Luật bổ sung nguyên tắc xây dựng và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường; bổ sung nguyên tắc xây dựng và nguyên tắc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật đối với chất thải; quy định về áp dụng công nghệ tốt nhất hiện có
Sáu là, nhóm chính sách về nội dung, trách nhiệm quản lý nhà nước và việc phân công, phân cấp thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm làm rõ các nội dung quản lý, xác định rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, không chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, một việc chỉ giao một cơ quan chịu trách nhiệm chính để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Trên cơ sở đó bổ sung quy định về nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Bổ sung các nội dung về: bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường; các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH; xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu, thông tin, báo cáo về môi trường. Cụ thể hóa trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Chính phủ theo hướng ngoài quy định thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước, cũng như sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể liên quan đến trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND các cấp.
Bảy là, nhóm chính sách về công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ môi trường. Dự thảo Luật đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ môi trường với các quy định về các công cụ kinh tế, chính sách ưu đãi của Nhà nước về bảo vệ môi trường , chính sách phát triển ngành kinh tế môi trường và việc huy động các nguồn lực cho bảo vệ môi trường.
Để phát huy vai trò của công cụ thuế, dự thảo Luật đã bổ sung đối tượng chịu thuế là chất thải vào thuế bảo vệ môi trường và quy định lộ trình chuyển đổi một số loại chất thải từ phí bảo vệ môi trường sang thuế bảo vệ môi trường. Bổ sung quy định về đặt cọc và hoàn trả bao bì, sản phẩm, trách nhiệm tái chế của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm khó có khả năng tái chế, chứa các chất độc hại hoặc ảnh hưởng quá trình thu gom, xử lý chất thải; mở rộng đối tượng ký quỹ phục hồi môi trường. Lần đầu tiên, dự thảo Luật quy định về thị trường phát thải nhằm khuyến khích tổ chức, cá nhân giảm phát thải thông qua việc trao đổi, mua, bán phát thải.
Dự thảo Luật dành một mục riêng quy định về chính sách phát triển ngành kinh tế môi trường, trọng tâm là chính sách phát triển các mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phát triển ngành công nghiệp môi trường, thị trường hàng hóa, dịch vụ môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên.
Tám là, nhóm chính sách về quản lý chất lượng môi trường. Dự thảo Luật quy định rõ các nội dung về bảo vệ chất lượng môi trường nước; bổ sung nhiều giải pháp về bảo vệ môi trường không khí; bổ sung quy định về tiêu chí và phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất; bổ sung quy định mới về sức khỏe môi trường nhằm kiểm soát và phòng ngừa các tác hại của các yếu tố môi trường đến sức khỏe con người.
Chín là, nhóm chính sách về quản lý cảnh quan thiên nhiên. Dự thảo Luật bổ sung các quy định mới về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên quan trọng, bồi hoàn đa dạng sinh học, chi trả dịch vụ hệ sinh thái để bảo vệ tài nguyên, thiên nhiên và đa dạng sinh học nhằm giải quyết, ngăn chặn nguy cơ mất cân bằng, vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái, suy giảm giá trị của cảnh quan thiên nhiên, và mục đích cụ thể là lấp khoảng trống trong quy định của pháp luật hiện hành về quản lý các tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế – xã hội đến các cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Mười là, nhóm chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu. Dự thảo Luật đã bổ sung quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bổ sung quy định về định giá các-bon và thị trường tín chỉ các-bon, trong đó đưa ra yêu cầu quy định nội dung và lộ trình phát triển thị trường tín chỉ các-bon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ các-bon thế giới phù hợp với các cam kết quốc tế; quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào hệ thống quy hoạch; cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu; báo cáo quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
Mười một là nhóm chính sách về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và bồi thường thiệt hại về môi trường. Dự thảo Luật làm rõ các loại sự cố môi trường để làm cơ sở đưa ra các biện pháp, phân định rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành có liên quan trong việc quản lý các hoạt động phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Lần đầu tiên, dự thảo Luật quy định rõ về việc cải tạo, phục hồi môi trường sau sự cố; huy động tài chính cho ứng phó sự cố môi trường; bổ sung quy định để bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường là loại hình bảo hiểm bắt buộc theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Mười hai là nhóm chính sách về quan trắc, thông tin, cơ sở dữ liệu và báo cáo môi trường. Dự thảo Luật bổ sung quy định về hệ thống quan trắc môi trường và trách nhiệm cụ thể của một số bộ, ngành; bổ sung quy định về chỉ tiêu thống kê quốc gia về môi trường; sửa đổi các quy định về trách nhiệm, nội dung, hình thức báo cáo, thời điểm và kỳ báo cáo đối với báo cáo công tác bảo vệ môi trường.
Mười ba là nhóm chính sách về hội nhập, hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Dự thảo Luật bổ sung nguyên tắc trong hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường trong đó nêu rõ hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về BVMT phải phù hợp với đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam và nằm trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và chiến lược, quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; được thực hiện trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, đảm bảo lợi ích hợp pháp và uy tín của quốc gia, tôn trọng độc lập chủ quyền, tuân thủ luật pháp của mỗi bên và luật pháp quốc tế.
Khi cho ý kiến về dự án luật này tại phiên họp thứ 44, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định cần thiết phải sửa đổi, bổ sung luật này và cho rằng đây là dự án luật đồ sộ với 16 chương 192 điều, phạm vi sửa đổi rộng. Ngoài 07 nhóm chính sách đề nghị sửa đổi ban đầu, lần này Chính phủ đề nghị sửa đổi thêm 06 nhóm chính sách, theo Chủ tịch Quốc hội phần sửa đổi, bổ sung các chính sách mới có nhiều nội dung mới so với quy định hiện hành, có liên quan đến nhiều quy định tại các luật và các văn bản đang có hiệu lực. Do đó, cần phải rà soát lại để bảo đảm thống nhất những luật vừa ban hành, luật đang đang chuẩn bị ban hành; tiếp tục rà soát, đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ của dự thảo luật đối với hệ thống pháp luật, tránh quy định lại những quy định mà các luật khác đã quy định còn phù hợp. Đồng thời, cần phải phải rà soát những cam kết quốc tế về môi trường trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có CPTPP, gần đây nhất là EVFTA…để vừa tạo hành lang pháp lý để phát triển đất nước phù hợp với các cam kết quốc tế, đáp ứng yêu cầu trong nước.
Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý, dự án Luật cần phải giải quyết những bất cập và đưa vào những quy định phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta hiện nay. Chủ tịch Quốc hội đề nghị đánh giá kỹ hơn về tác động chính sách theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật này cũng thống nhất về sự cần thiết ban hành, phạm vi sửa đổi, phạm vi điều chỉnh là nâng cấp dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường tại Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 thành dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) như Tờ trình của Chính phủ. Do đây là dự án Luật có tác động lớn đến kinh tế – xã hội, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên quan với nhiều luật khác, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng yêu cầu đánh giá sâu, kỹ lưỡng hơn những tác động của 13 nhóm chính sách liên quan đến kinh tế – xã hội, tài chính, ngân sách trên cơ sở tình hình thực tiễn của Việt Nam./.

(Nguồn: quochoi.vn)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây