Bảo tồn lưu giữ nguồn gen và giống thủy sản khu vực Nam Bộ

STNN - Ở Việt Nam có các giống loài thủy sản bản địa có nhiều ưu điểm như có tính đa dạng sinh học cao thích nghi với nhiều điều kiện sinh thái đa dạng và khác biệt. Đây chính là nguồn tài nguyên quý để lai tạo và cải tiến các giống nuôi mới.

Tuy nhiên, trong những năm qua do sự gia tăng dân số với tốc độ nhanh dẫn đến nhu cầu thực phẩm thủy sản ngày càng lớn; hậu quả là người dân đánh bắt quá mức với cường độ khai thác cao đã làm cho nguồn lợi thủy sản trên các thủy vực nội địa có sự suy giảm nhanh chóng. Thêm vào đó, sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác cũng tác động đến việc suy giảm nguồn lợi thuỷ sản như môi trường bị ô nhiễm, các bãi giống và bãi đẻ bị mất do hoạt động xây dựng của các công trình thủy điện và thủy lợi (Bộ NN&PTNT, 2012). Mặt khác nếu khai thác nguồn gen trong phạm vi hẹp, đa dạng di truyền thấp sẽ giảm cơ hội tạo ra con giống chất lượng tốt và tăng khả năng thoái hóa giống.

bao-ton-gen-hai-san-1759994103.jpg
 

Vì vậy để phát triển được chương trình cải tạo giống trong thủy sản thì trước mắt là phải thu thập, thuần dưỡng được các nguồn gen để đảm bảo đa dạng về di truyền. Vì thế, ThS. Nguyễn Hữu Thanh đã phối hợp với các cộng sự tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II thực hiện đề tài: “Bảo tồn, lưu giữ nguồn gen và giống thủy sản khu vực Nam Bộ” vào năm 2021.

Mục tiêu của đề tài là nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, lưu giữ lâu dài, an toàn nguồn gen và nâng cao chất lượng giống loài thủy sản nhằm phát triển bền vững nghề nuôi thủy sản khu vực Nam bộ.

Nhóm nghiên cứu đã khảo sát và thu thập bổ sung 3 nguồn gen thủy hải sản vào quần đàn với số lượng cụ thể là 17 cá thể cá hổ sọc nhỏ, 18 cá thể cá sửu, 20 cá thể cá trê Phú Quốc. Tỷ lệ sống sau khi thuần dưỡng đạt từ 95-100%.

Nhiệm vụ đã lưu giữ an toàn tổng số 8 nguồn gen các loài thủy hải sản với tổng số 346 cá thể (30 con cá mó đầu khum, 58 cá dứa, 28 móng tay chúa, 26 cá vồ cờ, 50 cá vồ đém, 50 cá hổ sọc nhỏ, 60 cá sửu và 44 cá trê Phú Quốc). Tỷ lệ sống đạt từ 93,7 - 100% đối với các nguồn gen vồ cờ, vồ đém, sửu, dứa, cá mó đầu khum, hổ sọc nhỏ, trê Phú Quốc. Riêng nguồn gen móng tay chúa chỉ đạt 48,3%.

Nhiệm vụ đã tiếp tục thực hiện việc đánh giá giá sơ bộ 08 nguồn gen và đánh giá chi tiết 03 nguồn gen lưu giữ về vùng phân bố, đặc điểm phân bố, chỉ tiêu hình thái, phân loại và khả năng thích nghi thuần dưỡng, sinh trưởng và các đặc điểm sinh học sinh sản. Nhiệm vụ tiến hành tư liệu hóa hồ sơ bổ sung cho 8 nguồn gen thủy sản. Cập nhật tại địa chỉ http://vienthuysan2.org.vn/index.php/vi/hoat-dong-nckh/De-tai-nghiencuu-va-ket-qua/Ket-qua-luu-giu-nguon-gen-thuy-san-79/. và hồ sơ lưu trữ cho từng nguồn gen.

Sử dụng nguồn gen cá vồ cờ (16 con) cho chương trình khai thác và phát triển nguồn gen giai đoạn 2020-2023. Nhiệm vụ cũng trao đổi thông tin nguồn gen cá mó đầu khum với Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III.

Kết quả bảo tồn đa dạng sinh học, lưu giữ, phát triển nguồn gen và giống các loài thủy sản có giá trị kinh tế và khoa học nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu, tạo nguồn nguyên liệu cho chương trình sản xuất giống, góp phần phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 21273/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.