Chia sẻ tại diễn đàn "Giải pháp phòng trừ bệnh héo vàng hại chuối", Tiến sĩ Mary Grace B. Saldajeno - Chuyên gia của Tập đoàn Dole, cho biết bệnh héo vàng chuối (bệnh Panama hay bệnh héo Fusarium) bắt đầu được ghi nhận tại Philippines từ năm 2002 ở Calinan, Davao, với các triệu chứng điển hình. Đến cuối năm 2005, ca nhiễm đầu tiên được xác nhận chính thức.
Cùng với đó, Tiến sĩ Mary Grace B. Saldajeno cũng chia sẻ về quá trình phòng ngừa, khắc phục bệnh Panama của Dole tại Philippines. Cụ thể, trước thực tế đó, Dole áp dụng chiến lược quản lý tổng hợp. Trọng tâm là phòng ngừa và loại trừ sớm: đào tạo kỹ năng nhận diện triệu chứng, nhổ bỏ và tiêu hủy cây bệnh, sử dụng cây giống sạch bệnh được nhân bằng nuôi cấy mô, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp kiểm dịch và an ninh sinh học để ngăn chặn TR4 lây lan.
Các biện pháp canh tác được triển khai đồng bộ, bao gồm: sử dụng các dòng chuối có khả năng chống chịu (từ biến dị dòng soma, chọn lọc tự nhiên, lai tạo hoặc gây đột biến); tăng cường vệ sinh đồng ruộng; quản lý nguồn nước và hệ thống thoát nước tại các vùng trũng thấp, dễ ngập úng. Bên cạnh đó, việc sử dụng vật liệu phủ hữu cơ và phân ủ (compost) có đặc tính ức chế mầm bệnh nhằm cải thiện hệ vi sinh vật đất cũng được đặc biệt chú trọng.
Song song với đó, các biện pháp cơ - lý như khử trùng dụng cụ, thiết bị, lắp đặt bể nhúng chân, bể khử trùng bánh xe và thiết lập các chốt kiểm soát an ninh sinh học cũng được áp dụng triệt để. Biện pháp sinh học được tăng cường thông qua việc bổ sung hệ vi sinh vật có lợi và sử dụng các chế phẩm sinh học thương mại. Trong khi đó, biện pháp hóa học chỉ đóng vai trò hỗ trợ, chủ yếu phục vụ công tác vệ sinh, khử khuẩn và cải tạo đất nhằm tạo điều kiện bất lợi cho nấm TR4 phát triển.
Tiến sĩ Mary Grace B. Saldajeno khẳng định: "Về lâu dài, phát triển giống chuối kháng bệnh là hướng đi then chốt. Hiện nay, các phương pháp như biến dị dòng soma, lai tạo truyền thống, gây đột biến, lai tạo tăng tốc và chỉnh sửa gen đang được triển khai trên toàn cầu. Trong đó, chỉnh sửa gen được xem là bước tiến đột phá nhờ khả năng tác động chính xác vào bộ gen của cây mà không cần đưa gen lạ vào, giúp tăng cường tính kháng bệnh và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu".
"Tuy nhiên, các giống chuối kháng bệnh hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định. Phần lớn các giống này chỉ mới đạt mức chống chịu (tolerance) chứ chưa kháng hoàn toàn (resistance), hiệu quả thực tế còn phụ thuộc vào điều kiện sinh thái. Đồng thời, chúng cũng phải đối mặt với các rào cản thị trường, quy định pháp lý và nguy cơ nấm bệnh tiếp tục biến đổi thích nghi trong tương lai," Tiến sĩ Mary Grace B. Saldajeno bổ sung.
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Chih-Ping Chao - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chuối Đài Loan (Trung Quốc) nhấn mạnh: "TR4 là chủng nấm có nguồn gốc từ đất với khả năng tồn tại hàng chục năm, lây lan qua con đường cây giống, đất, nước tưới, phương tiện vận chuyển và con người. Một khi nấm đã xâm nhiễm, biện pháp hóa học gần như không mang lại hiệu quả; việc tiêu hủy vườn bệnh chỉ giúp khoanh vùng dịch chứ không thể làm sạch đất.
Dẫn chứng tại Philippines, ông cho biết TR4 được ghi nhận trên chuối Cavendish từ năm 2000. Bệnh lan nhanh xuống các vùng trũng thấp và đến năm 2013 đã khiến hàng nghìn héc-ta mất khả năng canh tác, trong đó các nông hộ nhỏ lẻ là đối tượng chịu thiệt hại nặng nề nhất.
"Thay vì tiếp tục mở rộng diện tích sang vùng đất mới để bù đắp sản lượng - hướng đi làm tăng nguy cơ phát tán mầm bệnh, Philippines đã quyết định tái canh ngay trên vùng đất nhiễm bằng các giống có khả năng chống chịu. Tiêu biểu là giống Formosana (GCTCV-218). Đây là giống được Viện Nghiên cứu Chuối Đài Loan (TBRI) phát triển từ biến dị dòng soma của giống Cavendish truyền thống, sở hữu tính ổn định di truyền cao," Tiến sĩ Chih-Ping Chao chia sẻ.
Cũng theo Tiến sĩ Chih-Ping Chao, dữ liệu thực địa cho thấy hai dòng GCTCV-218 và GCTCV-219 duy trì tỷ lệ nhiễm TR4 rất thấp ngay cả trên các lô trồng thương mại bị nhiễm bệnh nặng. Cụ thể, giai đoạn 2012 - 2015, nhiều lô trồng GCTCV-219 ghi nhận tỷ lệ sạch bệnh gần như tuyệt đối. Trong khi đó, ở cùng điều kiện canh tác, giống Cavendish phổ biến (như Grand Naine) có tỷ lệ nhiễm lên tới 87%.
"Trước hết là áp dụng kiểm soát sinh học và quy trình tiêu hủy cây bệnh ngay tại 'điểm nóng', kết hợp xử lý triệt để tàn dư thực vật sau chặt hạ để hạn chế nguồn lây. Các biện pháp ngăn chặn nấm bệnh tái xâm nhập cũng được áp dụng nghiêm ngặt như: thiết lập hàng rào sinh học, khử trùng phương tiện và quản lý thoát nước bề mặt. Một điểm then chốt khác là vấn đề cây giống. Việc sử dụng cây giống nuôi cấy mô giúp cắt đứt đường lây nhiễm phổ biến nhất của TR4 là qua vật liệu trồng trôi nổi, không được kiểm soát. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng khuyến nghị người trồng cân nhắc biện pháp luân canh chuối với lúa nước hoặc khoai môn để làm giảm mật độ nấm trong đất. Đồng thời, cần cải tạo đất bằng vật liệu hữu cơ, kết hợp che phủ hoặc trồng xen nhằm hạn chế xói mòn và ngăn chặn mầm bệnh phát tán theo dòng chảy," Tiến sĩ Chih-Ping Chao nhấn mạnh.