Đánh giá một số dòng lúa chịu mặn triển vọng từ tổ hợp lai giữa giống Hương Việt và VN193

lua-chiu-man-1750817381.jpg
 

Hiện nay, ngành lúa gạo đang hướng tới mục tiêu nâng cao giá trị thông qua việc tập trung vào các giống lúa chất lượng cao (thơm, dẻo, hàm lượng amylose thấp 16-20%), đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường quốc tế, tương tự như các chương trình đầu tư phát triển giống lúa chất lượng như Basmati và Hom Mali tại các quốc gia khác. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo tại Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình trạng xâm nhập mặn ngày càng gia tăng và phức tạp tại các vùng đồng bằng ven biển. Hiện tượng này không chỉ làm suy giảm diện tích đất canh tác mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự sinh trưởng của cây lúa, trực tiếp đe dọa an ninh lương thực quốc gia. Thiệt hại do xâm nhập mặn sớm trong vụ Đông Xuân 2019/2020 vào khoảng 41.900 ha.

Trước bối cảnh đó, việc nghiên cứu và chọn tạo các giống lúa vừa đảm bảo chất lượng cao, vừa có khả năng chống chịu tốt với điều kiện nhiễm mặn trở thành một giải pháp hữu hiệu và bền vững. Đây là chìa khóa để duy trì sản xuất, tăng hiệu quả sử dụng đất và đảm bảo an ninh lương thực.

Đáp ứng yêu cầu cấp thiết này, các nghiên cứu đã được tiến hành. Khởi đầu là công trình của Lê Hùng Lĩnh và cộng sự (2020) với việc lai tạo giữa giống lúa chất lượng cao Hương Việt (vốn chịu mặn kém) và giống lúa địa phương VN193 (có khả năng chịu mặn khá). Tiếp nối hướng nghiên cứu đó, Khuất Thị Mai Lương cùng các cộng sự đã thực hiện đề tài: “Đánh giá một số dòng lúa chịu mặn triển vọng từ tổ hợp lai giữa giống Hương Việt và VN193” nhằm chọn lọc ra những cá thể ưu tú từ thế hệ con lai (BC1F7).

Qua đánh giá khả năng chịu mặn trong điều kiện nhân tạo ở các nồng độ muối 6‰, 8‰ và 10‰, nghiên cứu đã xác định được 5 dòng lúa triển vọng: HV.193.4, HV.193.8, HV.193.10, HV.193.14 và HV.193.15. Các dòng này thể hiện khả năng chịu mặn tốt ở cả giai đoạn nảy mầm và giai đoạn mạ, tương đương với giống bố/mẹ chịu mặn VN193 và giống chuẩn chịu mặn quốc tế Pokkali (thông qua các chỉ tiêu về suy giảm chiều dài chồi/rễ và điểm chống chịu SES). Đặc biệt, 4 dòng HV.193.4, HV.193.8, HV.193.14 và HV.193.15 không chỉ chịu mặn tốt mà còn cho thấy tiềm năng về năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh tốt trong điều kiện đồng ruộng.

Kết quả này là cơ sở khoa học quan trọng cho việc phát triển giống lúa chất lượng, chịu mặn. Nhóm nghiên cứu đề nghị cần tiếp tục đánh giá các đặc điểm nông sinh học, mức độ nhiễm sâu bệnh và khả năng chịu mặn của các dòng triển vọng này trong các vụ tiếp theo nhằm chọn lọc ra dòng lúa ưu tú nhất, có tiềm năng đưa vào sản xuất rộng rãi, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành lúa gạo Việt Nam trước thách thức biến đổi khí hậu.