Vì vậy, việc lựa chọn con giống tốt là yếu tố quan trọng hàng đầu không những đảm bảo hiệu quả kinh tế của việc sản xuất mà góp phần giữ được nguồn gen đa dạng cho việc chọn lọc các tính trạng khác trong tương lai. Do đó, việc thực hiện một chương trình chọn giống mới trên đối tượng cá rô phi vằn từ những đàn cá chọn giống trong nước và các đàn nhập nội từ các nước trong khu vực là việc làm cần thiết.

Chính vì vậy, ThS. Nguyễn Hồng Điệp đã phối hợp với các cộng sự tại Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chọn giống nâng cao tốc độ tăng trưởng của cá rô phi vằn Oreochromis niloticus” trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2021.
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu chọn giống nâng cao tốc độ tăng trưởng của cá rô phi vằn Oreochromis niloticus.
Dưới đây là các kết quả nổi bật của đề tài:
- Lựa chọn được 1.013 con cá rô phi vằn thuộc 4 tổ hợp (N, P, NG và NP) có tốc độ tăng trưởng nhanh, mức độ đa dạng quần đàn cao làm đàn ban đầu (G0) phục vụ chọn giống.
- Thế hệ chọn giống G1 đã lựa chọn được 1.017 con và thế hệ chọn giống G2 đã lựa chọn được 1.028 con. Đối với đàn đối chứng, mỗi thế hệ tương ứng lựa chọn được 360 con với tỷ lệ cá đực/cá cái là ½.
- Hệ số di truyền về tính trạng khối lượng ở hai lần kiểm tra của thế hệ G1 là 0,42-0,48. Đối với thế hệ G2, các giá trị về hệ số di truyền cho khối lượng là 0,38-0,42. Hiệu quả chọn lọc thực tế cũng ở mức trung bình, đối với thế hệ G1 là 11,2% và thế hệ G2 là 8,08%. Khối lượng trung bình của đàn chọn giống G1 đạt 903,99 g/con và thế hệ G2 đạt 973,5 g/con.
- Sản xuất và phát tán được trên 26.000 con cá rô phi vằn hậu bị bố mẹ từ đàn cá chọn giống G2. Phát tán cho 6 cơ sở sản xuất giống trong nước với số lượng 26.000 con, kích cỡ cá khi phát tán là trên 20g/con và tỷ lệ cá đực/cá cái là 1/1. Thu được trên 1,5 tấn cá rô phi thương phẩm từ các mô hình nuôi đánh giá.