Tôm hùm bông (Panulirus ornatus Fabricius, 1798) là đối tượng thủy sản trọng điểm tại các tỉnh miền Trung Việt Nam, đòi hỏi phát triển nuôi bền vững. Hiện nay, hoạt động ương tôm hùm giống chủ yếu trong lồng biển sử dụng thức ăn tươi, điều này tiềm ẩn nguy cơ lây truyền mầm bệnh qua đường thức ăn, ảnh hưởng đến chất lượng tôm giống. Việc phát triển thành công thức ăn công nghiệp cho giai đoạn ương tôm hùm giống sẽ góp phần hạn chế mầm bệnh, tạo ra nguồn tôm giống chất lượng cao, phục vụ nuôi thương phẩm và là tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền vững của nghề nuôi tôm hùm tại Việt Nam. Mặc dù đã có nghiên cứu về thức ăn công nghiệp cho tôm hùm thương phẩm, nhưng vẫn thiếu các nghiên cứu bài bản về sản xuất thức ăn công nghiệp cho giai đoạn ương tôm hùm giống. Do đó, việc nghiên cứu phát triển thức ăn công nghiệp cho tôm hùm bông giai đoạn puerulus đến 20 g/con là cần thiết để từng bước tạo ra sản phẩm thức ăn công nghiệp có thể áp dụng vào sản xuất.

Để giải quyết vấn đề này, TS. Mai Duy Minh cùng các cộng sự tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III (RIA3) thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sản xuất thức ăn công nghiệp ương nuôi tôm hùm bông (Panulirus ornatus) giai đoạn ấu trùng puerulus đến con giống 20 g/con”. Mục tiêu chung của đề tài là tạo ra thức ăn công nghiệp đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm hùm bông giai đoạn này, với tỷ lệ sống đạt tối thiểu 80%. Các mục tiêu cụ thể bao gồm: xác định nhu cầu dinh dưỡng của tôm hùm bông giai đoạn ấu trùng puerulus đến con giống 20 g/con; xây dựng bộ công thức thức ăn và quy trình sản xuất thức ăn công nghiệp cho giai đoạn này với quy mô lớn hơn hoặc bằng 30 kg/mẻ; xây dựng bộ tiêu chuẩn kỹ thuật cơ sở cho thức ăn ương nuôi; xây dựng quy trình ương nuôi tôm hùm giống bằng thức ăn công nghiệp trong bể từ giai đoạn ấu trùng puerulus đến 20 g/con đạt tỷ lệ sống tối thiểu 80%; sản xuất 500 kg thức ăn công nghiệp được sử dụng hiệu quả trong ương nuôi; và ương tạo ra 2000 con tôm hùm giống cỡ 20 g/con bằng thức ăn công nghiệp do đề tài sản xuất.
Sau một thời gian nghiên cứu, đề tài đưa ra các kết luận như sau:
Nhu cầu protein và lipid trong thức ăn ương tôm hùm bông (Panulirus ornatus) giai đoạn puerulus đến 20 g/con được dự báo lần lượt là 58-60% và 9-11%. Nhu cầu HUFA (Highly Unsaturated Fatty Acids) dự kiến ở mức 1,8-2,0%. Betaine với tỷ lệ 0,8% có khả năng tăng cường độ hấp dẫn của thức ăn công nghiệp cho tôm hùm giống. Mức Gelatin 1,47% giúp cải thiện độ ổn định của viên thức ăn công nghiệp mà không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm. Kích cỡ viên thức ăn tối ưu cho tôm hùm bông giống là đường kính Ø1,4-1,8 mm và độ dài 3-5 mm.
Khi ương tôm hùm bông giai đoạn puerulus trong bể ở mật độ 35-42 con/m2 bằng thức ăn viên, sau 5 tháng, tôm đạt khối lượng thân 20-21 g/con. Tốc độ tăng trưởng khối lượng riêng (SGR) đạt 2,78-2,83% /ngày, tỷ lệ sống đạt 80-81%, và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) dao động từ 2,06-2,09.
Cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về nhu cầu của từng loại HUFA cụ thể cho tôm hùm bông giống nhằm mục đích nâng cao hơn nữa chất lượng của thức ăn công nghiệp.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 21108/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.