Trung Quốc và “cuộc chơi mới” với trái cây Đông Nam Á

STNN - Từng là thị trường nhập khẩu khổng lồ cho nông sản Đông Nam Á, Trung Quốc đang dần lật ngược thế cờ. Họ không chỉ mua trái cây, mà còn âm thầm đầu tư nghiên cứu, mở rộng diện tích và ứng dụng công nghệ cao để trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp trên thị trường toàn cầu. Từ câu chuyện thanh long đến tham vọng với sầu riêng, bài học cho Việt Nam ngày càng rõ ràng: nếu không kịp xây dựng thương hiệu và thị trường quốc tế, chúng ta có thể đánh mất lợi thế ngay trên “sân nhà” của mình.

Thanh long: Từ nhập khẩu giống đến bá chủ toàn cầu

thanh-long-binh-thuan-sinhthainongnghiep2-1-1756112713.jpg
Để đứng vững trong ‘cuộc chơi mới’, trái cây Việt cần xây dựng thương hiệu bền vững và đáp ứng chuẩn quốc tế.

Thanh long từng được xem là biểu tượng của nông sản Việt Nam trên bản đồ thế giới. Trong nhiều năm liền, Việt Nam giữ vị trí số một về diện tích và sản lượng, trở thành nguồn cung cấp chính cho Trung Quốc. Nhưng chỉ trong vòng chưa đầy ba thập kỷ, trật tự này đã đảo ngược. Từ những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu giống thanh long từ Việt Nam và một số quốc gia khác. Khi ấy, loại quả này còn xa lạ, được coi như hàng hóa cao cấp dành cho tầng lớp trung lưu và thượng lưu.

Thay vì tiếp tục nhập khẩu dài hạn, Trung Quốc đã có một chiến lược khác. Họ tập trung nghiên cứu giống, mở rộng diện tích trồng và áp dụng hàng loạt tiến bộ khoa học kỹ thuật. Những bước đi này không diễn ra ồn ào, nhưng kiên trì và có hệ thống. Sau 30 năm, Trung Quốc đã vươn lên trở thành quốc gia trồng thanh long lớn nhất thế giới với diện tích 53.000 – 67.000 ha và sản lượng vượt 1,6 triệu tấn mỗi năm, chính thức vượt qua Việt Nam.

Không chỉ dừng lại ở sản lượng, Trung Quốc còn đẩy mạnh khâu chế biến và thương mại hóa. Thanh long không chỉ xuất hiện ở dạng quả tươi, mà còn trở thành nguyên liệu cho công nghiệp nước giải khát, đồ ăn nhanh, mỹ phẩm và dược phẩm. Bằng cách này, giá trị của loại trái cây được nâng cao gấp nhiều lần. Đây chính là minh chứng cho khả năng nội địa hóa nhanh chóng và công nghiệp hóa nông nghiệp của Trung Quốc, đồng thời là lời cảnh tỉnh cho những nước đang phụ thuộc quá nhiều vào thị trường xuất khẩu này.

Sầu riêng: Tham vọng tự chủ với công nghệ cao

trung-quoc-va-cuoc-choi-nong-san-stnn-1756112713.png
Trung Quốc mở cửa nhập khẩu trái cây Đông Nam Á quy mô lớn, tạo ra một ‘cuộc chơi’ mới đầy cơ hội và thách thức - Nguồn: Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật.

Nếu thanh long là câu chuyện đã rồi, thì sầu riêng chính là ván cờ tiếp theo mà Trung Quốc đang chuẩn bị những nước đi chiến lược. Hiện nay, sầu riêng vẫn là loại trái cây nhập khẩu nhiều nhất vào Trung Quốc, với nhu cầu tiêu thụ khổng lồ lên tới 1,56 triệu tấn mỗi năm. Việt Nam và Thái Lan đang hưởng lợi trực tiếp từ cơn khát này, đặc biệt Việt Nam đã có bước nhảy vọt khi được cấp phép xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc.

Tuy nhiên, tại đảo Hải Nam, những vườn sầu riêng đã bắt đầu bén rễ. Với khoảng 667 ha, sản lượng hiện tại mới chỉ đạt 1.000 – 2.000 tấn mỗi năm, con số vô cùng nhỏ bé so với nhu cầu. Song điều quan trọng không nằm ở sản lượng hôm nay, mà ở cách thức tiếp cận của Trung Quốc. Trung Quốc không mở rộng diện tích ồ ạt như cách làm truyền thống, mà triển khai một chiến lược khác hẳn: ứng dụng trí tuệ nhân tạo để giám sát sự phát triển của cây, xây dựng hệ thống nhà kính và nhà lưới để kiểm soát vi khí hậu, đưa vào công nghệ phân loại tiên tiến và bảo quản hiện đại nhằm nâng cao chất lượng quả sau thu hoạch.

Đây là con đường phát triển nông nghiệp công nghệ cao mà Trung Quốc đã và đang áp dụng thành công ở nhiều lĩnh vực khác. Một khi kết hợp giữa quy mô sản xuất lớn với công nghệ hiện đại, khả năng tự chủ sầu riêng trong vòng 10 - 20 năm tới là hoàn toàn có thể xảy ra. Và khi đó, vị thế xuất khẩu của Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động mạnh mẽ. Kịch bản của thanh long có thể lặp lại, chỉ khác ở chỗ giá trị và quy mô của sầu riêng lớn gấp nhiều lần, đồng nghĩa với rủi ro cũng nghiêm trọng hơn nhiều.

Thách thức cho Việt Nam: Hành động trước khi quá muộn

Trong bối cảnh Trung Quốc vừa là thị trường tiêu thụ khổng lồ, vừa là đối thủ cạnh tranh ngày càng rõ rệt, Việt Nam không thể chỉ dựa vào lợi thế tự nhiên hay sự bùng nổ tạm thời của xuất khẩu. Bài học thanh long là minh chứng cho sự thiếu bền vững nếu chỉ tập trung vào sản lượng mà bỏ qua thương hiệu, tiêu chuẩn và thị trường. Nếu không có giải pháp mang tính chiến lược, sầu riêng hoàn toàn có thể trở thành “trái đắng” tiếp theo.

Để tránh điều này, Việt Nam cần có tầm nhìn dài hạn. Trước hết, cần tập trung vào xây dựng thương hiệu quốc gia cho các loại trái cây chủ lực. Thương hiệu không chỉ dừng ở cái tên, mà phải gắn liền với tiêu chuẩn chất lượng, vùng trồng được kiểm soát, chỉ dẫn địa lý rõ ràng và câu chuyện văn hóa – sinh thái đặc trưng. Khi có thương hiệu, sản phẩm mới có thể đứng vững trên thị trường quốc tế, thay vì chỉ dựa vào lợi thế giá rẻ.

Bên cạnh đó, đầu tư vào công nghệ bảo quản và chế biến sâu là chìa khóa kéo dài vòng đời thương phẩm, giúp trái cây Việt Nam không bị phụ thuộc vào thời vụ và thị trường duy nhất. Song song với đó là việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, hướng đến các khu vực tiềm năng như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản hay Trung Đông. Chỉ khi mở rộng được mạng lưới tiêu thụ, nông sản Việt Nam mới thoát khỏi tình trạng “được mùa mất giá” hoặc phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc.

Cuối cùng, cần một sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà khoa học. Đây là yếu tố cốt lõi để nâng cao năng suất và chất lượng theo chuẩn mực quốc tế. Nếu không có sự kết nối này, nông dân sẽ mãi manh mún, doanh nghiệp thiếu nguồn cung ổn định, còn nhà khoa học không tìm được kênh ứng dụng cho nghiên cứu.

Thời cơ và thách thức luôn song hành. Trung Quốc đã chứng minh khả năng biến “người mua” thành “người sản xuất” chỉ trong vài thập kỷ. Việt Nam cần rút ra bài học để không bị lặp lại kịch bản cũ. Cuộc chơi mới của trái cây Đông Nam Á đã bắt đầu, và nếu không hành động ngay hôm nay, ngày mai chúng ta sẽ không còn nhiều cơ hội để thay đổi.

Hiền Chi