
Báo cáo của Viện Tài nguyên Thế giới (WRI) chỉ ra rằng năng suất nông nghiệp cần tăng ít nhất 100% để đáp ứng nhu cầu lương thực toàn cầu vào năm 2050. Nếu không được tối ưu hóa, tình trạng khan hiếm lương thực có thể trầm trọng hơn do nhiều nguyên nhân như phân phối không đồng đều, biến đổi khí hậu gia tăng, suy giảm lao động nông nghiệp và năng suất khác biệt giữa các khu vực.
Chẳng hạn, ở Thái Lan, tỷ lệ nông dân trẻ (15 - 40 tuổi) đã giảm mạnh, từ 48% năm 2013 xuống chỉ còn 32% trên tổng số nông dân vào năm 2023.
Ở giữa biển đảo, Philippines đang vật lộn với tác động của biến đổi khí hậu, gây ra mùa vụ thất thường và tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả. Trong khi đó, Indonesia loay hoay với nền nông nghiệp dựa chủ yếu vào các hộ nhỏ lẻ, và nông dân khó tiếp cận thị trường.
Tương tự, Việt Nam cũng đang chứng kiến sự di cư mạnh mẽ của lao động trẻ từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm có thu nhập cao hơn, bỏ lại phía sau khu vực nông thôn thiếu lực lượng kế cận đủ khả năng tiếp cận và áp dụng công nghệ mới.
Mặc dù vậy, Đông Nam Á vẫn dẫn đầu thế giới về sản xuất lúa gạo và một số mặt hàng nông sản khác. Nhưng việc ổn định sản xuất lương thực của khu vực này không chỉ là yếu tố sống còn cho an ninh lương thực của mỗi quốc gia mà còn ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng quốc tế. Vì vậy, việc áp dụng công nghệ mới trong nông nghiệp là một nhu cầu cấp thiết.
Vai trò của công nghệ nông nghiệp
Công nghệ nông nghiệp (Agritech) ngày càng thông minh hơn, nhưng đối với nhiều nông dân Đông Nam Á, nó vẫn nằm ngoài tầm với. Không phải vì họ không muốn dùng mà vì mức giá quá cao. Chẳng hạn, một chiếc máy bay không người lái (UAV) phun thuốc trừ sâu có giá khoảng 120–350 triệu đồng, trong khi một chiếc UAV chuyên dùng để giám sát cây trồng với công nghệ 4.0 tích hợp dữ liệu đa phổ phân tích có thể còn có chi phí cao hơn.
Với chi phí thế này, cách nông hộ nhỏ thường bị gạt ra khỏi cuộc các mạng công nghệ. Họ phải dựa vào các phương thức canh tác truyền thống vừa tốn thời gian, vừa kém hiệu quả và khó duy trì.
Đấy là lý do tại sao các cuộc thảo luận về công nghệ nông nghiệp không nên chỉ dừng ở việc chọn công nghệ nào, mà còn phải bàn cách làm sao để công nghệ ấy trở nên vừa túi tiền, phù hợp với trình độ và nhu cầu thực tế của nông dân.
Chẳng hạn, ở lĩnh vực canh tác chính xác, thay vì sử dụng các cảm biến đắt tiền, nông hộ có thể sử dụng các ứng dụng lập bản đồ dựa trên điện thoại thông minh, cảm biến dùng chung hoặc các bộ dụng cụ kiểm tra đất giá rẻ. Enfarm là một startup đang thử nghiệm những giải pháp tiết kiệm như vậy để đo dinh dưỡng đất cho những đồn điền cà phê và sầu riêng ở Tây Nguyên.
Trong lĩnh vực tưới tiêu thông minh, nếu trang trại có thể lắp đặt một hệ thống IoT toàn diện thì cực kỳ lý tưởng. Nhưng nếu không đủ điều kiện, họ cũng có thể chọn những giải pháp nhỏ hơn như máy bơm chạy bằng năng lượng Mặt trời, bộ điều khiển đo độ ẩm và tự động kích hoạt khi đất khô, hoặc các hệ thống tưới tiêu chung do hợp tác xã quản lý.
Với các công nghệ sau thu hoạch, rõ ràng sẽ tiết kiệm chi phí hơn khi có các mô hình chia sẻ như kho lạnh cộng đồng, kho thuê theo nhu cầu, máy sấy năng lượng Mặt trời, pin cát, hoặc thậm chí là quy trình chế biến chung cho nhiều nhà xưởng.
Ở Việt Nam, dưới sự hỗ trợ của CSIRO (Úc), các nhà khoa học đã thử phát triển một quy trình quy trình chế biến bơ, chanh leo, sầu riêng ngay gần trang trại, tạo ra các sản phẩm cô đặc hoặc dạng sệt ổn định ở nhiệt độ phòng. Điều này giúp người nông dân giảm phụ thuộc vào chuỗi lạnh và tăng các sản phẩm trung gian có thể áp dụng rộng rãi trong ngành thực phẩm. Các nhà khoa học cho biết, quy trình và thiết bị sẽ khá đơn giản, hoàn toàn phù hợp cho các xưởng nhỏ vận hành.
Không thể không nhắc đến các chợ nông sản số, các sàn giao dịch thương mại điện tử - nơi người nông dân và thương hộ có thể khai thác sức mạnh tiềm năng của thông tin và công nghệ số. Các chuyên gia cho rằng những ứng dụng hiện đại sẽ phát huy hiệu quả nhất khi đi kèm với những giải pháp đơn giản, thân thiện với người dùng như đặt hàng qua tin nhắn, chat, voucher điện tử và thanh toán đa kênh.
Điều quan trọng là tìm ra sự kết hợp phù hợp giữa công nghệ, mô hình tài chính và đặc điểm địa phương, cho dù đó là thuê thiết bị, tham gia hợp tác xã hay chỉ thanh toán khi dùng dịch vụ. Rốt cuộc,không có chiếc áo chung cho tất cả các trang trại, những gì phù hợp với một nông dân trồng lúa ở Thái Lan sẽ không nhất thiết phải phù hợp với một người trồng dừa ở Philippines.
Can thiệp toàn diện
Trong bối cảnh nông nghiệp Đông Nam Á vẫn chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và thiếu tập trung, những thách thức về mặt cấu trúc là điều khó tránh khỏi. Các nông hộ thường ưu tiên lợi nhuận ngắn hạn, dùng phần lớn thu nhập để trang trải sinh hoạt hằng ngày thay vì tái đầu tư cho vụ mùa tiếp theo. Tư duy mang tính tự cung tự cấp đó tạo ra một rào cản quan trọng đối với việc phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp bền vững.
Để giải quyết thách thức, chính quyền buộc phải có các chương trình can thiệp toàn diện, với sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, startup và trung tâm đào tạo nghề. Các chương trình sẽ không chỉ dừng ở việc đào tạo kỹ thuật và ứng dụng công nghệ, mà còn phải tập trung nâng cao kiến thức tài chính và kỹ năng kinh doanh để nông hộ có thể phát triển nông nghiệp như một doanh nghiệp thực thụ. Chương trình Nông nghiệp 4.0 của Thái Lan là một ví dụ như vậy.
Về mặt phân phối, chuỗi cung ứng cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nông sản đến bàn ăn của mọi người. Ở Indonesia, với hàng nghìn hòn đảo, phân phối là bài toán nan giải. Ngay cả những nền tảng thương mại điện tử nông sản lớn như Sayurbox và Segari mới chỉ hoạt động ở một số thành phố lớn, chưa vươn ra toàn quốc do chi phí kho bãi, logistics quá cao. Tình trạng này cho thấy nhu cầu cấp bách cần có nhiều nền tảng địa phương hơn xuất hiện ở các vùng khác nhau để lấp đầy khoảng trống. Các nền tảng này cũng sẽ cần các khoản đầu tư lớn vào việc hỗ trợ nông hộ nhỏ lẻ tham gia thị trường.
Cuối cùng là việc tạo điều kiện cho các startup công nghệ nông nghiệp và những nhà đầu tư quan tâm đến việc rót vốn vào lĩnh vực này. Họ là bộ đôi thường đi kèm với nhau, trong đó sự tăng trưởng của một bên sẽ thúc đẩy sự tham gia của bên còn lại.